Phân tích Rằm tháng giêng – bài thơ nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chủ đề quan trọng trong chương trình Văn học phổ thông. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp dàn ý chi tiết và hướng dẫn phân tích Rằm tháng giêng một cách đầy đủ, giúp học sinh nắm vững nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Dàn ý phân tích Rằm tháng giêng
Dưới đây là dàn ý phân tích Rằm tháng giêng chi tiết để các em tham khảo. Dàn ý được biên soạn bởi đội ngũ giáo viên giỏi, có nhiều kinh nghiệm giảng dạy văn học.
Mở bài
Giới thiệu khái quát về tác giả Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ tài ba vĩ đại của dân tộc Việt Nam, lại vừa là một nhà thơ xuất sắc.
Giới thiệu về bài thơ “Rằm tháng giêng”: Bài thơ được sáng tác vào những năm kháng chiến chống Pháp. Khi ấy Hồ Chí Minh còn đang lo cho các cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp.
Vì không ngủ được nên Bác bầu bạn với thiên nhiên. Bác đã viết lên bài thơ này.
Thân bài
a. Cảnh trăng rằm tháng Giêng trên sông Việt Bắc.
Thời gian và không gian trong 2 câu thơ đầu tràn ngập vẻ đẹp và sức xuân: “Rằm xuân” là lúc mặt trăng tròn đầy. Ánh trăng bao trùm vạn vật trong đêm nguyên tiêu.
Có cảm giác ánh trăng chưa bao giờ đẹp và tròn như thế. Dưới ánh trăng, điệp từ “xuân” gợi hình ảnh thiên nhiên tràn đầy sức sống của mùa xuân.
Cây cối, sông nước, bầu trời, mây gió… trong đêm rằm đầu năm đều hiện lên sinh động. Cảnh mở rộng với không gian ba chiều: vừa có chiều cao của ánh trăng vừa có chiều rộng của sông nước tiếp giáp với bầu trời.
Điều này tạo ra không gian bao la vô tận. Hai câu thơ không tả mà giàu sức gợi hình ảnh, gợi màu sắc dù nó là bức tranh về cảnh khuya chỉ có 2 gam màu trắng và đen, sáng tối.
Người đọc thích thú khi hình dung cảnh đêm xuân đẹp bao nhiêu thì càng cảm phục cái tài thơ của Bác bấy nhiêu.
b. Hình ảnh con người.
Trong khung cảnh nên thơ ấy, giữa nơi mịt mù khói sóng Bác Hồ đang làm gì? Ánh trăng tuyệt đẹp kia không làm Bác xao lãng việc nước, việc quân mà trên cái nền thiên nhiên tươi đẹp đó, Người vẫn một lòng hướng về đồng bào của mình.
“Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”: Khuya rồi mà trăng vẫn “mãn thuyền” vẫn ngân nga đầy thuyền. Trăng tràn ngập khắp nơi, tràn cả không gian rộng lớn, vẫn chờ, vẫn đợi cho dù Bác có bận đến đâu.
Thuyền lờ lững xuôi dòng trong đêm có trăng đồng hành như một người bạn chung thủy sâu sắc. Ở đây ta thấy được sự giao cảm giữa thiên nhiên với thiên nhiên và giữa con người với con người.
Điều đó làm cho bức tranh thơ trở nên có hơi thở, có linh hồn. Trăng gắn bó với người nghệ sĩ biết thưởng lãm, biết trân trọng vẻ đẹp của trăng.
Trong hoàn cảnh đất nước còn khó khăn gian khổ, ta vẫn cảm nhận sự hòa hợp kì diệu giữa cảnh và người. Đó là một phong thái ung dung, một tinh thần lạc quan của vị lãnh tụ vĩ đại.
Kết bài
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ:
- Nội dung: vẻ đẹp đêm trăng rằm tháng Giêng ở Tây Bắc và tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước và phong thái ung dung, lạc quan của Bác
- Nghệ thuật: thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, hình ảnh thơ mang màu sắc cổ điển mà bình dị, gần gũi…
Bài thơ “Rằm tháng giêng” giúp em hình dung một cách cụ thể bức tranh đêm trăng trên sông nước thật đẹp. Hiểu thêm tấm lòng yêu dân, yêu nước, yêu thiên nhiên sâu sắc của vị lãnh tụ vĩ đại, vị cha già kính yêu của dân tộc.
Mẫu 1: Phân tích Rằm tháng riêng (Nguyên tiêu)
Nguyên tiêu là bài thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh được viết trong thời gian kháng chiến chống Pháp tại chiến khu Việt Bắc. Sau chiến thắng Việt Bắc, Thu Đông 1947 sang Xuân Hè 1948 quân ta lại thắng lớn trên đường số 4. Niềm vui thắng lợi tràn ngập tiền tuyến, hậu phương. Trong không khí sôi động và phấn chấn ấy bài thơ Nguyên tiêu của Bác Hồ xuất hiện trên báo Cứu quốc như một đoá hoa xuân ngọt ngào rực rỡ sắc hương.
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Mở đầu bài thơ là cảnh tuyệt vời trong đêm nguyên tiêu. Trên bầu trời vầng trăng tròn vành vạnh:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
(Rằm xuân lồng lộng trăng soi)
Trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp tươi xinh khác thường vì có hơi thở của mùa xuân. Đêm rằm trăng sáng, ánh trăng lồng lộng dát vàng trên nền trời, phủ khắp chốn trần gian, ánh trăng tràn mọi nẻo… Ánh trăng làm cho cảnh vật mang vẻ đẹp hữu tình lung linh sinh sắc. Đất nước, quê hương bao la một màu xanh bát ngát, màu xanh lấp lánh của xuân giang, dòng sông như được tiếp thêm sức sống mới dưới khí trời mát dịu. Dòng sông trở nên đẹp hơn, hữu tình hơn, dòng sông xanh xuân thủy và tiếp nối với màu xanh của xuân thiên.
Mùa xuân là mùa của chồi non, sự sống. Xuân phơi phới có ở khắp mọi nơi, xuân của dòng sông, dòng nước, không gian cao rộng của bầu trời. Khí xuân tràn ngập sự sống, ba từ xuân làm nổi bật cái thần của cảnh vật, sông nước và bầu trời:
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên
(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)
Xuân trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ và vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả màu xanh của sông nước, đất trời vào xuân. Khi vào xuân, con người tạo vật như bừng tỉnh, rạo rực trong cuộc sống mới. Nhà thơ Thanh Hải đã từng cảm nhận mùa xuân cua thiên nhiên và đất trời qua những tín hiệu đặc sắc:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng…
(Mùa xuân nho nhỏ)
Xuân đến, tiếng chim hót vang lừng, giọt mùa xuân long lanh do đất trời ban tặng làm cho sự sống rạo rực hơn và bất tận.
Trong câu thơ của Bác, xuân còn gợi tả màu xanh của sông nước, trời đất vào xuân, sức sống mãnh liệt, trẻ trung căng tràn nhựa sống. Niềm vui sướng tự hào phơi phới của Bác đang ngây ngất say sưa giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử – đất nước đang anh dũng kháng chiến.
Với Bác, yêu trăng, yêu xuân chính là yêu cuộc đời. Trái tim mênh mông của người chan hoà với thiên nhiên, sông núi, hoa lá cỏ cây thật hữu tình. Có trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa, trăng vào cửa sổ đòi thơ trong niềm vui thắng trận. Và xem sách chim rừng vào cửa đậu – phê văn hoa núi ghé nghiêng soi. Thiên nhiên trong thơ Bác thật phong phú và chan chứa chất thơ.
Đến hai câu thơ cuối, ta thấy cảm nhận về dòng sông, về khói sóng, và con thuyền được nâng lên một mức:
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Nhớ ánh trăng ngày nào khi Bác còn bị giam dưới ngục lạnh nơi đất khách quê người (1942-1943) thì đêm nay – đêm rằm tháng Giêng (1948) lại bắt gặp ánh trăng nơi chiến khu Việt Bắc. Con thuyền xuôi mái giữa dòng sông trăng, tựa mạn thuyền người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh đang đàm quân sự. Ánh trăng đêm này là ánh trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm được nhân dân đón đợi với bao tình cảm nồng hậu. Trăng đêm nay không phải là ánh trăng bình thường trước sân nhà, đầu ngõ. Bác thưởng trăng trên khói sóng, người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các bậc tao nhân mặc khách ngày xưa mà còn là con người hành động, người chiến sĩ cộng sản đánh giặc. Vị lãnh tụ đang bàn bạc việc quân trên con thuyền nhẹ lướt giữa sông nước trời xuân đây là trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt, yên ba là khói sóng, thi liệu cổ của Đường thi. Vậy là câu thơ có nét cổ điển và có nét hiện đại, chất hiện đại đó chính là chất thép, chất chiến đấu của người chiến sĩ cộng sản: Nay ở trong thơ nên có thép – Nhà thơ củng phải biết xung phong.
Sau quãng thời gian bàn bạc việc quân, đêm đã về khuya, nửa đêm (dạ bán). Con thuyền kháng chiến trở thành con thuyền trăng trên vời sông nước mênh mông:
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)
Hình ảnh nguyệt mãn thuyền gợi cho chúng ta nhớ đến những vần thơ cổ thi hoa lệ:
Thuyền mấy lá đông, tây lặng ngắt
Một vầng trăng trong vắt lòng sông…
(Bạch Cư Dị)
Nước biếc non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu
(Nguyễn Trãi)
Trở lại bài thơ Nguyên tiêu ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ ẩn hiện sau màn sương khói. Trên chiếc thuyền hình ảnh thi sĩ – chiến sĩ hiện lên thật đẹp đẽ với bàn bạc việc quân trong đêm trăng, tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, quyết chiến đấu giành lại độc lập tự do cho dân tộc.
Nguyên tiêu là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, mang phong vị Đường thi. Bài thơ có nét thơ cổ thể: con thuyền, trăng, sóng, xuân, nước xuân, trời xuân, khói sóng… điệu thơ thanh nhẹ. Trong khung cảnh ấy chất chiến sĩ là trung tâm. Bài thơ như một đoá hoa xuân, tinh hoa kết tụ tâm hồn trí tuệ, đạo đức Hồ Chí Minh.
Văn là người, thơ là tấm lòng. Bài thơ này thể hiện tình yêu thiên nhiên đất nước, đồng thời bộc lộ tình yêu nước sâu sắc. Cốt cách thi sĩ hoà quyện chất chiến sĩ chất chứa đầy ắp trên chiếc thuyền kháng chiến đang tiến nhanh về bến bờ độc lập tự do.
Mẫu 2: Phân tích Rằm tháng riêng (Nguyên tiêu)
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại nhiều tác phẩm xuất sắc, trong đó nổi bật là bài thơ “Rằm tháng Giêng”. Bài thơ này được sáng tác trong giai đoạn Bác còn ở chiến khu Việt Bắc, vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954). Vào cuối năm 1947, khi quân Pháp tấn công dồn dập lên căn cứ Việt Bắc với mục tiêu tiêu diệt cơ quan đầu não và lực lượng lãnh đạo của ta, nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và sự đoàn kết của nhân dân, chiến dịch Việt Bắc đã đánh bại kế hoạch của địch.
Bài thơ mở đầu bằng việc miêu tả cảnh đêm trăng rằm tháng Giêng ở Việt Bắc:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,” (Đêm nay, đêm rằm tháng Giêng, trăng tròn đầy nhất)
Khung cảnh thiên nhiên được khắc họa trong đêm trăng rằm, khi trăng đang ở độ tròn trịa và đẹp nhất – “nguyệt chính viên”.
“Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên;” (Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)
Tiếp theo, Bác đã sử dụng điệp ngữ “xuân” kết hợp với các yếu tố tự nhiên “sông, nước, trời” để nhấn mạnh sự sống và vẻ đẹp của mùa xuân đang lan tỏa khắp không gian, từ trên cao đến dưới thấp. Động từ “tiếp” gợi ra cảm giác trời và đất như đang hòa quyện, sắc xuân đang lan rộng.
Giữa khung cảnh thiên nhiên đó, con người hiện lên với công việc của mình:
“Yên ba thâm sứ đàm quân sự,” (Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân)
Trong hoàn cảnh bấy giờ, công việc cách mạng phải diễn ra trong bí mật. Bác Hồ và các chiến sĩ chọn thời điểm đêm khuya để bàn bạc việc quân – công việc trọng đại của đất nước. Dù vậy, con người vẫn là trung tâm của bức tranh thiên nhiên này.
“Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.” (Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền)
Quá mải mê bàn bạc, khi trở về thì đêm đã khuya. Ánh trăng càng thêm sáng rõ, hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” thật độc đáo, thể hiện sức lan tỏa mạnh mẽ của ánh trăng.
Bác Hồ đã sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, mang đậm nét cổ điển, kết hợp với các biện pháp tu từ, giọng thơ lạc quan, vui tươi. Bài thơ đã khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên của chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng rằm tháng Giêng cùng với tâm thế ung dung, lạc quan của người chiến sĩ cách mạng một cách chân thực.
“Rằm tháng Giêng” của Bác Hồ không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên, mà còn bộc lộ tấm lòng yêu nước và niềm tin chiến thắng vào sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Mẫu 3: Phân tích Rằm tháng riêng (Nguyên tiêu)
Bài thơ “Nguyên tiêu” (Rằm tháng Giêng) là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khắc họa một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của núi rừng Việt Bắc trong đêm trăng, đồng thời bày tỏ tấm lòng yêu nước sâu nặng của Người:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”
Hình ảnh ánh trăng từ lâu đã là nguồn cảm hứng trong thơ ca. Ta từng bắt gặp ánh trăng đầy cảm xúc trong thơ Lý Bạch:
“Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.”
(Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương)
Ánh trăng trong thơ Lý Bạch mang theo nỗi nhớ quê hương da diết. Còn trong “Rằm tháng Giêng” của Hồ Chí Minh, ánh trăng lại chứa đựng một ý nghĩa khác, sâu sắc và lạc quan.
Bác đã xây dựng hình ảnh ánh trăng trong đêm rằm tháng Giêng với vẻ đẹp “nguyệt chính viên” – lúc trăng tròn đầy và sáng nhất. Ánh trăng trong đêm rằm vốn đã đẹp, nhưng ánh trăng trong đêm rằm tháng Giêng lại đẹp hơn cả, mang theo sức sống và sắc xuân phủ khắp mọi cảnh vật. “Xuân giang”, “xuân thủy”, và “xuân thiên” như tạo nên một không gian ba chiều đầy màu sắc và sinh động. Từ “xuân” được lặp lại ba lần như muốn nhấn mạnh rằng sắc xuân đang tràn ngập khắp không gian, không chỉ làm rộng lớn thiên nhiên mà còn mở ra sự nối tiếp giữa trời và đất, tạo nên vẻ đẹp hài hòa, thăng hoa.
Giữa khung cảnh thiên nhiên thơ mộng ấy, người chiến sĩ cách mạng vẫn không quên nhiệm vụ quan trọng của mình. Trong những năm tháng chiến tranh, các hoạt động cách mạng phải diễn ra một cách âm thầm và kín đáo. Vì vậy, các chiến sĩ chọn thời điểm đêm khuya để bàn bạc việc quân, việc nước. Quá say sưa với công việc, khi họ kết thúc mới nhận ra đêm đã khuya, ánh trăng sáng rực như lấp đầy cả không gian. Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” không chỉ gợi lên vẻ đẹp của ánh trăng mà còn tượng trưng cho niềm tin vào sự thắng lợi của cách mạng. Con thuyền chứa đầy ánh trăng giống như niềm tin vào tương lai sáng lạn của dân tộc.
Bài thơ “Rằm tháng Giêng” không chỉ vẽ lên bức tranh thiên nhiên trong đêm rằm tháng Giêng đầy thơ mộng mà còn thể hiện tình yêu nước sâu sắc của Hồ Chí Minh. Qua đó, người đọc còn cảm nhận được tâm hồn thi sĩ tinh tế, nhạy cảm và lạc quan của Bác Hồ, một người không chỉ giỏi cầm quân mà còn tài hoa trong thi ca.
Dàn ý phân tích Rằm tháng giêng này sẽ giúp học sinh nắm vững cấu trúc bài văn và phát triển ý tưởng một cách logic. Từ đó các em có thể viết được những bài phân tích văn học chất lượng cao.