Phân tích bài thơ Vội vàngcủa Xuân Diệu là một trong những chủ đề quan trọng trong chương trình Ngữ văn. Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, khát vọng sống mãnh liệt và triết lí nhân sinh sâu sắc của nhà thơ.
Dàn ý phân tích bài thơ Vội vàng
Dưới đây là dàn ý **phân tích Vội vàng** chi tiết để các em tham khảo, được biên soạn bởi đội ngũ giáo viên giỏi, có nhiều kinh nghiệm giảng dạy văn học.
Mở bài
Giới thiệu về tác giả Xuân Diệu và bài thơ “Vội vàng”, khái quát nội dung chính của bài thơ.
Xuân Diệu là nhà thơ trữ tình xuất sắc trong phong trào Thơ mới 1930 – 1945. Bài thơ “Vội vàng” được in trong tập “Thơ thơ” – tập thơ đầu trong sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu, xuất bản năm 1938.
Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết cùng với tinh thần lạc quan, niềm tin và khát vọng cuồng nhiệt của Xuân Diệu.
Thân bài
a) Bố cục của bài thơ: Bài thơ có bố cục rõ ràng, mạch lạc và chặt chẽ, gắn liền với mạch cảm xúc của tác giả.
- Phần 1 (13 câu thơ đầu): Tác giả say mê với vẻ đẹp thiên nhiên mùa xuân.
- Phần 2 (17 câu thơ tiếp): Cảm nhận và tâm trạng của Xuân Diệu về thời gian, cuộc đời.
- Phần 3 (9 câu thơ cuối): Quan niệm và khát vọng sống của Xuân Diệu.
b) Luận điểm 1: Phân tích tình yêu thiên nhiên của tác giả.
Xuân Diệu đã giãi bày một ước muốn có phần ngông cuồng của mình, đó là ước muốn ngự trị thiên nhiên, đất trời. Tác giả muốn dòng thời gian ngừng trôi chảy để tạo hóa và vạn vật không thay đổi.
Chính từ niềm say mê và tình yêu thiên nhiên tha thiết, tác giả đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân tràn đầy nhựa sống. Bức tranh này ngập tràn sắc xuân, hương xuân và cả tình xuân.
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân hiện lên với vẻ đẹp hữu tình, lãng mạn. Vạn vật trong tiết trời xuân hiện lên rất rõ nét, từ các loài ong, bướm, yến anh, rồi hoa lá và cả ánh bình minh rực rỡ.
Mọi vật được nhà thơ nhắc đến đều có đôi có cặp: Tuần tháng mật của ong bướm, hoa của đồng nội, lá của cành. Điều này cho thấy sự đắm say, lãng mạn và ngây ngất trong con mắt của nhà thơ trước thiên nhiên mùa xuân.
c) Luận điểm 2: Phân tích tâm trạng và cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu.
Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu vừa tinh tế vừa mang triết lí nhân sinh. Nhà thơ sáng tác bài thơ này khi vẫn còn rất trẻ nhưng lại nghĩ đến được một triết lí sâu xa.
Thời gian luôn gắn liền với mùa xuân và tuổi trẻ của con người. Mỗi thời khắc trôi qua là mùa xuân trôi đi, tuổi trẻ cũng qua đi, xuân hết thì đời người cũng hết.
Tác giả vốn là một người yêu cuộc sống, yêu tuổi trẻ, chính vì vậy ông lo lắng và xót xa trước sự trôi chảy của thời gian. Lời than vãn của tác giả mang ý nghĩa như một quan niệm sâu sắc về cuộc đời.
d) Luận điểm 3: Phân tích khát vọng sống của tác giả.
Tác giả đã cảm nhận thiên nhiên một cách trọn vẹn bằng tất cả các giác quan của mình. Tác giả muốn lưu giữ và níu kéo thời gian ở mãi tuổi thanh xuân, ở mãi mùa xuân của đời người.
Điệp từ “Ta muốn” lặp lại nhiều lần kết hợp với những động từ mạnh như “ôm, riết, cắn…” diễn tả rất rõ khát vọng sống mãnh liệt. Nhịp điệu thơ dồn dập và hối hả cho thấy sự giục giã thời gian để được tận hưởng cuộc sống của nhà thơ.
Kết bài
Tổng kết nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
“Vội vàng” là một quan niệm sống đầy mới mẻ và mang ý nghĩa tích cực của Xuân Diệu. Nhà thơ khuyên chúng ta phải biết yêu cuộc sống, tận hưởng những thứ mà cuộc sống ban tặng.
Đây là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ mới lãng mạn. Những cách tân của Xuân Diệu mang những nét sáng tạo táo bạo, từ cảm hứng, ý tưởng đến hình ảnh, giọng điệu và ngôn từ.
Mẫu 1: Phân tích Vội vàng
Xuân Diệu được đánh giá là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Sự mới mẻ, độc đáo đó đã được thể hiện ngay từ tập thơ đầu tay “Thơ thơ”. Vội vàng là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của tập thơ này. Tác phẩm thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết, bên cạnh đó còn là quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa từng có trong truyền thống văn học dân tộc.
Bài thơ trước hết thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết, say đắm với giọng điệu sôi nổi, tha thiết:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Ước muốn của thi nhân thật khác thường và vô cùng mãnh liệt. Điệp cấu trúc “Tôi muốn …cho” kết hợp với nhịp điệu nhanh, gấp gáp cho thấy khao khát tắt nắng, buộc gió, biến đổi quy luật tuần hoàn của vũ trụ. Bởi ông muốn lưu giữ khoảnh khắc đẹp đẽ của hiện tại, vậy chẳng còn cách nào khác chính là ngăn bước đi vội vã của thời gian.
Vậy, vì sao Xuân Diệu lại có ước muốn tha thiết, cháy bỏng đến như vậy? Đó là bởi thiên nhiên trần thế quá đỗi đẹp đẽ. Ông lắng long mình, mở mọi giác quan để cảm nhận vẻ đẹp toàn mĩ của tạo vật: tuần tháng mật, đồng nội xanh rì, canh tờ phơ phất, ánh sáng,… Mọi hương vị màu sắc, âm thanh, ánh sáng hòa quyện với nhau một cách tuyện mĩ và đầy tình tứ. Mỗi ngày vạn vật lại mang đến cho con người một bữa ăn thịnh soạn để thưởng thức, ngắm nhìn. Xuân Diệu có quan niệm vô cùng mới mẻ, tiến bộ: cuộc sống xung quanh ta là đẽ đẹp nhất, tuyệt diệu nhất. Chốn thần tiên không ở đâu xa mà ở chính trần gian này.
Bức tranh đó không chỉ là thiên nhiên đẹp đẽ mà đó còn là bức tranh tình yêu. Mọi sự vật trong không gian ấy đều có đôi, có cặp: ong – bướm, hoa trong đồng nội, lá trên cành tơ,… Vạn vật đều chìm đắm trong hơi men tình yêu. Và để đến cuối tác giải khái quát: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Câu thơ sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo, phép chuyển đổi cảm giác, tháng giêng như cặp môi căng mọng của người thiếu nữ, đầy tình tứ, xuân thì. Mùa xuân vốn trừa tượng, nhưng dưới ngôn ngữ của Xuân Diệu đã được hữu hình hóa. Nhưng mùa xuân đẹp là vậy, lòng ông vẫn đầy băn khoăn: “Tôi xung sướng. Nhưng vội vàng một nửa/ Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Tôi vừa sung sướng vì được tận hưởng vẻ đẹp của đất trời nhưng lại vừa vội vàng, lo lắng vì sự chảy trôi của thời gian.
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Câu thơ ngắt nhịp 3/2/3 diễn tả bước đi chậm mà hết sức lạnh lùng của thời gian, biện pháp điệp cấu trúc với kiểu câu định nghĩa “nghĩa là” tác giả nhấn mạnh chiều đi tuyến tính của thời gian. Đây là quan niệm mới mẻ so với văn học trung đại, văn học cổ cho rằng thời gian là tuần hoàn: “Xuân khứ bách hoa lạc/ Xuân đáo bách hoa khai”. Còn đối với Xuân Diệu thời gian chảy trôi một đi không quay trở lại. Bên cạnh đó câu thơ còn sử dụng những cặp từ đối lập: đương tới với đương qua, còn non với sẽ già nhấn mạnh dòng thời gian một đi không trởi lại. Mùa xuân đi qua cướp đi tuổi trẻ; lòng người vô hạn muốn đón nhận cả thiên nhiên vạn vật nhưng “lượng trời cứ chật” “xuân tuần hoàn” còn “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”. Các cặp từ đối lập đã cho thấy sự hữu hạn của đời người và sự mênh mông, vô hạn của trời đất. Thời gian trôi qua lấy đi tuổi trẻ, cuộc đời mỗi người, vì thế nhân vật tôi phải sống nhanh, sống gấp để tận hưởng mọi tinh hoa của trời đất:
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mớt bắt đầu mơn mởm
…
Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào người”
Đại từ đổi từ tôi sang ta, kết hợp với hàng loạt động từ mạnh được sắp xếp theo chiều tăng tiến: ôm, riết, say, thâu cho thấy khát khao tận hưởng bằng tất cả các giác quan của Xuân Diệu. Liên từ và, cho được lặp lại nhiều lần nhấn mạnh vào sự ăm ắp, thịnh soạn của bàn tiệc mùa xuân, bàn tiệc cuộc đời dành cho con người. Những từ chếnh choáng, đã đầy, no nê cho thấy sự thỏa mãn đến tận cùng của nhân vật trữ tình trước bàn tiệc cuộc đời. Khép lại bằng khao khát: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào người”. Lời gọi xuân hồng khiến cho mùa xuân không còn vô hình, trừu tượng mà trở nên hữu hình, như một sinh thể sống động. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác, xuân, đến xuân hồng và muốn cắn cho thấy khao khát, mong muốn được tận hưởng trọn vẹn nhất hương vị cuộc đời.
Tác phẩm sử dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật, giọng thơ đan xen khi hồ hởi khi tiếc nuối. Bài thơ còn thể hiện quan niệm mới mẻ về thời gian, tuổi trẻ, hạnh phúc: Thời gian một đi không trở lại, tuổi trẻ là phần đẹp đẽ quý giá nhất của đời người, vì vậy mỗi chúng ta cần sống vội vàng từng giây từng phút.Đây là triết lí sống tích cực của Xuân Diệu.
Mẫu 2: Phân tích Vội vàng
Xuân Diệu là một cái tên quen thuộc được biết đến với những bài thơ về mùa xuân, tuổi trẻ ( trước cách mạng tháng Tám) hay những bài thơ về Tổ Quốc, về nhân dân, về Đảng, về Bác Hồ, về hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, về sự nghiệp xây dựng đất nước (sau cách mạng tháng Tám). Nổi bật trong những bài thơ viết về mùa xuân, tuổi trẻ của Xuân Diệu là bài Vội vàng. Bài thơ là lời giục giã sống mãnh liệt, sống hết mình, quý trọng từng giây, từng phút của cuộc đời mình, nhất là những tháng năm của tuổi trẻ.
Xuân Diệu yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp đến mãnh liệt đến cường tráng nhưng bên trong những vần thơ của ông vẫn gây cho người đọc một cảm giác chênh vênh, hụt hẫng. Bởi tình yêu luôn gắn với nỗi đau, niềm vui song song với nỗi buồn, bởi niềm vui đó rồi cũng phải hết, không thể tồn tại vĩnh hằng được. “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”(Thế Lữ). Bài thơ Vội vàng là tiếng nói con tim của một kẻ đang say mê trong tình yêu với những cung bậc cảm xúc khác nhau.
Bài Vội vàng có hình ảnh cả một thiên đường trên mặt đất: Xuân Diệu phát hiện và khẳng định dứt khoát mùa xuân và mọi cảnh đẹp quanh ta là cả một thế giới thần tiên.Bốn câu đầu: hình ảnh cái tôi lãng mạn bộc lộ rất độc đáo:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió”, thật là những ham muốn kỳ dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được quy luật, làm sao có thể vĩnh viễn hóa được những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy? Những khát khao “phi lí” ấy lại tạo nên một cái tôi cực kỳ ấn tượng và lôi cuốn. Tác giả không dùng đại từ “ta” mà lại dùng “tôi” như để khẳng định mình, khẳng định khát khao cháy bỏng “đoạt” lấy thiên nhiên đất trời.
Xuân Diệu muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên, những vận động của đất trời. Đó là tiếng nói của cái tôi đầy kiêu hãnh với khát vọng mãnh liệt lạ lùng, cho thấy tầm vóc của con người muốn vươn lên để có thể ngang tầm với tạo hóa. Thiên đường – mùa xuân ấy mang bao nhiêu vẻ đẹp: sức sống của vạn vật đều rộn ràng tươi thắm, nảy nở rất trẻ trung.
Tình yêu cuộc sống này tràn ngập trong huyết mạch của nhà thơ và nhà thơ nhận thấy cuộc sống nơi mình đang sống như một thiên đường:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.”
Đó là một bức tranh mùa xuân đầy ánh sáng , mới mẻ, tinh khôi, đầy âm thanh tình tứ. Mùa xuân là mùa của cây cối đâm trồi, nảy lộc, mùa của sự sinh sôi và hạnh phúc tràn đầy. Khu vườn xuân trong bài thơ cũng “vội vàng” dâng toả sắc hương, trao mật ngọt. Ong bướm rộn ràng bởi những đóa hoa xuân khoe sắc thắm nổi bật giữa đồng nội xanh rì.
Cành tơ phơ phất đang vươn những chồi búp nõn nà trong bức tranh xuân. Ánh sáng bình minh toả mà hồng đào, bừng hé. Chim yến, chim oanh đang rộn ràng hát những bản tình ca mùa xuân. Điệp ngữ: “Này đây” lặp bốn lần là tiếng reo vui đầy kinh ngạc của tác giả vì liên tiếp phát hiện ra những vẻ đẹp kì lạ của cuộc sống. “Tháng giêng” là khởi đầu của một năm, khởi đầu của mùa xuân – mùa xuân tươi non mơn mởn là biểu tượng vẻ đẹp cuộc sống.
Hình ảnh “cặp môi gần” gợi làn môi tươi hồng của thiếu nữ đang hé mở đợi chờ. Khác với các nhà thơ khác thường lấy thiên nhiên là chuẩn cho mọi vẻ đẹp thì Xuân Diệu lại lấy con người giữa mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu làm chuẩn mực. Vì thế nên tháng Giêng như tràn trề nhựa sống, mơn mởn da thịt bởi xuân hồng.
Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Sở dĩ Xuân Diệu có những mong muốn và khao khát như thế bởi tác giả là một thi sĩ có hồn thơ nhạy cảm đặc biệt trước bước đi của thời gian. Và Xuân Diệu khẳng định:
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.”
Khác với những quan niệm cũ cho rằng “xuân vẫn tuần hoàn” thì đối với Xuân Diệu:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.”
Tương ứng với mùa xuân là con người, là tôi. Thời gian là thước đo tuổi trẻ. Thời gian sẽ một đi không trở lại, vì vậy tuổi trẻ cũng như thế. Làm chi có sự tuần hoàn cơ chứ ! Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người thật là ngắn ngủi, hữu hạn.
“Mùi tháng năm đền rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…”
Cái tinh tế của Xuân Diệu thể hiện ở chỗ: cảm nhận được sự phai tàn khi vạn vật còn đang ở độ mơn mởn. Thi sĩ thấy như ngọn gió lướt qua tất cả. Lúc tạo vật đang ở thời tươi cũng là lúc phải đối diện với sự phai tàn sắp sửa. Thời gian như có mùi, có vị chia phôi chất chứa. cả đất trời, sông núi đều cất lên âm thanh của sự chia ly, tiễn biệt. Vạn vật đang than thở, ngậm ngùi, đưa tiễn phần đời của chính nó. Tất cả khiến nhà thơ cảm thấy hụt hẫng, tiếc nuối.
Không thể buộc gió, không thể tắt nắng, cũng không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống: “Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao giờ nữa…”
Nếu như ở hai khổ thơ đầu, Xuân Diệu nói về tình yêu thiết tha với thiên đường nơi trần thế của mình hay ở khổ thơ thứ ba tác giả đưa ra một quan niệm mới mẻ về thời gian: mùa xuân đi là mùa xuân không quay trở lại, lấy con người giữa tuổi trẻ làm chuẩn cho mọi vẻ đẹp thì ở khổ thơ thứ tư lại là lời giục giã sống vội vàng, cuống quýt của tác giả.
Mở đầu khổ thơ, Xuân Diệu viết: “Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm!”. Đây là lời giục giã sống vội vàng, sống sao cho có ý nghĩa khi còn trẻ bởi thời gian sẽ trôi qua rất nhanh. Và ở đây, Xuân Diệu đã gợi ra một cách sống, một quan niệm sống tích cực hơn: sống hết mình từng giây, sống tận hiến và tận hưởng cuộc sống bằng các giác quan, sống hết mình ở thời tươi đẹp nhất.
Ở đoạn thơ cuối, tác giả đã sử dụng một loạt động từ tăng tiến để thể hiện cảm xúc mãnh liệt của mình:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều”.
Nếu như ở phần đầu bài thơ, tác giả xưng “tôi” để bộc bạch, giãi bày tâm trạng thì ở khổ thơ cuối, tác giả lại xưng “ta” để tự mình đối diện với cự sống trên trần gian. Tất cả đều thể hiện sự gấp gáp, cuống quýt, vồ vập. Xuân Diệu muốn ôm giữ lấy những vẻ đẹp non tươi của cuộc sống đang diễn ra: sự sống bắt đầu mơn mởn, mây đưa, gió lượn,…để nó khỏi trôi đi nhưng dù ôm chặt mà vẫn không thể giữ được trọn vẹn. Trái tim yêu của Xuân Diệu như muốn rộng ra chứa hết cả vũ trụ. Tất cả đều thúc đẩy một quan niệm sống hối hả, vồ vập, cuống quýt.
Vội vàng thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Và bài thơ là nhịp đập gấp gáp trước “thanh sắc trần gian” một ngày xuân của một trái tim chưa bao giờ chán sống.
Mẫu 3: Phân tích Vội vàng
Trong phong trào thơ Mới, ngoài cái kỳ dị bí ẩn nhiều đau thương của Hàn Mặc Tử, sự quê mùa chân chất của Nguyễn Bính, nỗi buồn mênh mang, ảm đạm của Huy Cận thì Xuân Diệu đã nổi lên như một hiện tượng độc đáo, đầy mới lạ và nhiều sức hấp dẫn. Ông đã mang đến cho cả thi đàn một luồng gió mới, trẻ trung, yêu đời, nồng nhiệt và đắm say, như một kẻ si tình đang vội vã khỏa lấp đi những nỗi trống rỗng, thiếu vắng trong lòng, một kẻ “tham lam” tận hưởng những màu sắc, hương vị bình thường giữa cuộc đời. Đọc thơ Xuân Diệu người nào chê thì phê phán đến bỏ, người đã thích thì ca ngợi hết lời, và những người thích thú ấy lại đa số là những người trẻ, dạt dào sức sống. Vội vàng là một trong những tứ thơ nổi bật và xuất sắc nhất của Xuân Diệu khi thể hiện được hầu hết phong cách sáng tác cũng như những quan niệm sống, những triết lý nhân sinh sâu sắc của tác giả.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Trong bốn câu thơ đầu tiên Xuân Diệu đã bộc lộ cái tôi cá nhân của mình một cách rõ rệt và đặc sắc bởi những ước muốn kỳ lạ có phần hoang đường và nông nổi khi tác giả muốn “tắt nắng”, “buộc gió” những sự việc tưởng chừng như xa vời và không thể xảy ra. Đằng sau suy nghĩ táo bạo ấy là một tình yêu tha thiết với cuộc đời, vì yêu nên người thi sĩ luyến tiếc tất cả vẻ đẹp bình dị đang diễn ra ở cuộc đời này. Đối với Xuân Diệu màu nắng chói chang của mùa hạ hay nhàn nhạt của mùa thu đều thực đẹp và thực quý giá, mà bản thân Xuân Diệu muốn thứ nắng ấm áp ấy mãi được tồn tại để chiêm ngưỡng, tận hưởng.
Nhà thơ muốn “buộc gió” là bởi vào mùa xuân trăm hoa đua nở, hương sắc ngào ngạt, buộc gió để hương thơm của hoa lá, cây cỏ không bị phai nhạt, hư vô trong không gian. Có thể nói rằng cái tôi của Xuân Diệu được thể hiện một cách vô cùng độc đáo vừa ngây thơ, khát khao sở hữu như một đứa trẻ hồn nhiên lại cũng vừa táo bạo, mạnh mẽ khi muốn thay đổi cả tạo hóa. Tất cả những điều ấy đều thể hiện tấm lòng yêu tha thiết của Xuân Diệu đối với cuộc sống, với thiên nhiên mùa xuân, mà sâu xa là sự tiếc nuối, sợ hãi bản thân không so kịp với bước chân của tạo hóa, không thể tận hứng mà tận hưởng hết tất thảy những điều bình dị trong cuộc đời vốn còn nhiều tươi đẹp này.
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Chính từ nhận thức mới mẻ rằng vẻ đẹp thực sự chính là xuất phát từ những điều bình dị, giản đơn xung quanh cuộc sống thường ngày chứ không phải ở một chốn bồng lai tiên cảnh nào xa xôi. Xuân Diệu đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên mùa xuân thực sinh động và hấp dẫn, bộc lộ rõ tình cảm nồng nàn, đắm say của ông đối với mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình bởi từng vần thơ của ông dù vui hay buồn vẫn luôn rất tình tứ, lãng mạn. Ở Vội vàng cũng thế, trong lúc sôi nổi, đắm say và nhiệt huyết nhất khi nhìn về cảnh sắc mùa xuân, ánh mắt của người nghệ sĩ cũng tràn ngập tình yêu, niềm hạnh phúc đã đầy. Điều đó thể hiện rõ trong từng câu thơ khi ở bức tranh thiên nhiên hầu như mọi cảnh vật đều có đôi có cặp, lãng mạn và tình tứ, ong bướm thì ngọt ngào đắm say tuần tháng mật. Hoa trong đồng nội xanh rì thực hòa hợp viên mãn, lá với cành tơ cũng lả lướt đón đưa, và khúc tình si của cặp yến oanh lại càng làm cho khung cảnh mùa xuân thêm phần rộn rã tươi đẹp.
Đặc biệt ở câu thơ “Và này đây ánh sáng chớp hàng mi” lại càng làm cho bức tranh mùa xuân thêm phần lãng mạn, trong trẻo và ấm áp tình người. Hình ảnh hàng mi ánh lên màu nắng sớm là một hình ảnh đẹp và lãng mạn, khi Xuân Diệu đã khéo léo để con người xuất hiện và hòa nhập với thiên nhiên, yêu thiên nhiên một cách rất đỗi dịu dàng, đó có thể là một nàng thơ trẻ tuổi dạo bước trong khu vườn, cả người phủ một màu nắng nhàn nhạt, mà hàng mi cong vút lại bắt mắt hơn cả. Đó cũng có thể là bóng dáng người nghệ sĩ đang bận tận hưởng mùa xuân, trong cảm giác mơ màng, đôi mắt khép hờ hững khiến nắng ánh lên hàng mi. Chung quy lại dù hiểu theo cách nào Xuân Diệu cũng đã rất thành công khi đem đến cho người đọc một bức tranh thiên nhiên thực hài hòa, tràn đầy sức sống, cả sức sống của thiên nhiên lẫn sức sống của con người. Càng bộc lộ được tấm lòng yêu mùa xuân, yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả.
Đến câu thơ cuối cùng triết lý nhân sinh sâu sắc của Xuân Diệu được bộc lộ một các tinh tế rằng “Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa”, như vậy đối với tác giả một ngày được sống, được tỉnh giấc chính là một niềm vui lớn, tựa như thần, như thánh ngự trước cửa. Và Xuân Diệu, bản thân ông chỉ mong mỗi ngày được sống hạnh phúc, được tận hưởng cuộc sống bình dị êm đềm, được sống giữa thiên nhiên xuân sắc, đó đã là điều hạnh phúc quá đỗi lớn lao, chứ chẳng mong cầu tìm bình yên, vui sướng giữa chốn bồng lai tiên cảnh, xa rời nhân thế. Từ đó cũng thấy được quan niệm sống thực tế, đơn giản, không mưu cầu những thứ cao xa, ngoài tầm với, mà trái lại Xuân Diệu hết sức trân trọng cuộc sống trước mắt, trân trọng từng giây phút tuổi trẻ giây phút được sống trên trần gian.
Câu thơ “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” là sự chuyển đổi cảm xúc mạnh mẽ và thú vị, xưa nay người ta vẫn tận hưởng cảnh sắc thiên nhiên bằng thính giác, xúc giác, thị giác, thì đến Xuân Diệu ông còn tận hưởng mùa xuân bằng cả vị giác. Vì quá đỗi yêu thích, quá đỗi khao khát vẻ đẹp của mùa xuân mà ông vừa thấy nó ngon ngọt, vừa muốn được tận hưởng được “hôn” vào mùa xuân. Đang trên đà cảm xúc thăng hoa tột bậc của sự sung sướng hạnh phúc, bỗng nhiên tâm trạng của thi sĩ chùng lại:
“Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Xuân Diệu đang mơ màng trong bức tranh thiên nhiên mùa xuân đậm sắc hương vị, thế nhưng giữa cái sung sướng ấy nhà thơ bất chợt dừng lại vội vã nuối tiếc mùa xuân ngay chính giữa mùa xuân. Quả thực đó là một cách nghĩ vô cùng kỳ lạ và khó hiểu, thế nhưng chính cái sự ưu lo, tiếc nuối lạ lùng ấy lại là chi tiết cho thấy tấm lòng khao khát, trân trọng mùa xuân và tuổi trẻ của Xuân Diệu nó tha thiết, sâu đậm hơn bao giờ hết. Đồng thời cũng là cánh cửa để ở ra những triết lý nhân sinh mới mà tác giả muốn truyền đạt.
“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;”
Xuân Diệu hiểu và nắm rõ được quy luật không thể thay đổi của tạo hóa “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua/Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”, thời gian thấm thoát thoi đưa, năm này qua tháng nọ, cứ lặng lẽ trôi đi mà không vì một ai mà dừng lại. Cùng với bước đi của tạo hóa tuổi xuân của con người cũng theo đó mà tàn phai, héo úa dần theo năm tháng, không một ai có thể chống lại bước đi của thời gian, cũng không thể sống mãi cùng năm tháng, tuổi trẻ qua đi, tuổi già ập đến, con người chẳng ai thoát khỏi một vòng sinh lão bệnh tử. Tác giả nghĩ đến mùa xuân qua đi rồi xuân lại về, một vòng tuần hoàn lặp lại mãi mãi, thế nhưng còn bản thân ông lại chỉ có một cuộc đời, một tuổi xuân duy nhất. Chính lẽ ấy Xuân Diệu đâm ra tiếc nuối và hờn giận “Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật/Không cho dài thời trẻ của nhân gian”. Tác giả yêu cuộc sống, khao khát mùa xuân và tuổi trẻ đến độ hờn dỗi, than trách cả tạo hóa, thậm chí muốn ông trời cho mình thêm một thời thanh xuân tươi đẹp. Ấy rồi Xuân Diệu càng trở nên buồn bã, ảm đạm trong những vần thơ chứa đựng đầy nỗi tiếc nuối:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”,
Tác giả ý thức được sự ngắn ngủi của đời người, của cuộc sống thế nên đối với ông việc tạo hóa tuần hoàn cũng chẳng có nghĩa lý gì khi cuộc đời chỉ có một, chẳng thể lặp lại lần nữa. Đồng thời cũng thể hiện được cá tính, cái tôi ngông cuồng, dám vượt lên để đứng ngang hàng cùng vũ trụ, đề cao bản ngã, khi nhận định rằng còn trời đất nhưng đã không còn bản thân mãi mãi, thể hiện sự mất mát sánh ngang với trời đất. Chính lẽ ấy, Xuân Diệu không kìm lòng được mà tiếc cả đất trời, tiếc nuối hết tất thảy những gì đang diễn ra xung quanh cuộc sống. Cái tấm lòng vừa bao la, vừa tham lam tiếc nuối của Xuân Diệu thật đáng yêu và cũng thật sâu sắc, khi đã mở ra trong lòng độc giả những quy luật tuần hoàn tàn nhẫn của tạo hóa, khiến chúng ta nhận thức được sự quý giá của tuổi trẻ, tạo động lực để con người ta sống có ý nghĩa hơn, tránh để lại nhiều tiếc nuối trong cuộc đời. Và bản thân Xuân Diệu cũng chính là người mạnh mẽ tìm ra giải pháp cho bản thân khi sớm nhận ra những quy luật của thời gian, ông vội vã lao vào sống, lao vào tận hưởng đến gấp đôi, gấp ba lần, như một kẻ đói đứng trước rừng cao lương mỹ vị.
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Câu thơ “Mau đi thôi/Mùa chưa ngả chiều hôm” chính là lời tự thúc giục, động viên bản thân, cũng như nhiều thế hệ trẻ phải nhanh bước chân chạy đua với thời gian mà tận hưởng của sống, tận hưởng những cảnh đẹp, ý vui ngay chính tại nhân gian này chứ không phải ở một nơi nào đó xa xăm. Tấm lòng khát khao, rạo rực của người nghệ sĩ như “muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, dành trọn hết tất cả những gì xanh tươi, trẻ trung trong vũ trụ, muốn được bay bổng cùng với “mây đưa, gió lượn”, muốn được đã đầy say đắm trong tình yêu và mật ngọt của tuổi trẻ. Tất cả những điều tuyệt vời ấy Xuân Diệu chỉ muốn gộp, muốn “thâu” hết lại trong một “cái hôn nhiều” đắm say, mơ màng và sâu sắc.
Lòng người nghệ sĩ chỉ muốn tận hưởng càng nhiều, nhiều hơn nữa, với ông bao nhiêu cái xinh đẹp của thời tươi cũng là chẳng đủ, ông muốn sống hai ba lần chỉ trong một đời người. Thế nên cái tốc độ, cái vội vàng, những cái mà ông muốn tận hưởng, muốn ôm trọn cũng gấp tới vài ba lần. Nếu có điều quở trách người ta chỉ dám quở: Xuân Diệu sao tham sống quá, tham tận hưởng cái cuộc đời vốn bình dị này quá mà đâu biết rằng đối với ông những thứ cây cỏ, ánh sáng của thế gian này lại chính là thứ quý giá và tươi đẹp nhất trên đời. Có vậy mới thấy Xuân Diệu trong thơ dường như muốn tận hưởng mãi, không có điểm dừng, thế nhưng ông lại cũng là người sáng suốt khi biết thế nào là hạnh phúc, biết đủ và biết kiếm tìm vẻ đẹp cuộc sống ở nơi nhân gian trần thế, chứ chẳng hão huyền tịm tận chín tầng mây như nhiều văn nhân, nghĩa sĩ xưa.
Câu thơ cuối bài “Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào ngươi!” là một câu thơ giàu xúc cảm và rất tình tứ, thể hiện được cái lãng mạn vừa phóng khoáng vừa ngông cuồng, cũng như tình yêu mãnh liệt của Xuân Diệu đối với mùa xuân. Đối với ông chỉ cảm nhận, mắt thấy tai nghe còn chưa đủ, mà người còn muốn được cắn thử, nếm thử cái hương sắc tuyệt vời của mùa xuân, được tận hưởng một cách trọn vẹn nhất thì mới nguôi ngoai những nỗi tiếc nuối, hoang mang trong lòng, mới lấy lại được sự cân bằng trong những cảm xúc bâng khuâng vì sợ tuổi xuân trôi đi mất.
Vội vàng của Xuân Diệu là một bài thơ rất mới, mới về cả cách nhìn nhận, quan niệm thẩm mỹ, cho đến cách truyền tải cảm xúc, triết lý nhân sinh, tất cả đều được tác giả thể hiện một cách tinh tế, cũng vừa độc đáo với lối thơ tự do, khuynh hướng lãng mạn kiểu Pháp, cùng với hệ thống từ ngữ phong phú giàu sức gợi. Tác phẩm không chỉ bộc lộ những quan niệm mới mẻ về mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ, mà còn mang đến cho người đọc cách nhìn nhận về cuộc sống, về việc tìm kiếm hạnh phúc, cũng như cách trân trọng và sống một cuộc đời có ý nghĩa, để tuổi xuân không bị lãng phí trong nhiều tiếc nuối.
Mẫu 4: Phân tích Vội vàng
Đến với Thơ mới là đến với thế giới cảm xúc muôn cung nghìn bậc, thế giới nghệ thuật muôn hình vạn trạng. Một Thế Lữ “rộng mở”, một Lưu Trọng Lư “mơ màng”, một Nguyễn Bính “quê mùa”, một Hàn Mặc Tử “kì dị”… Họ đều là những cái tên không thể bỏ quên khi nhắc về Thơ mới. Nhưng sẽ mãi mãi là thiếu sót, là chưa đủ nếu không có sự góp mặt của Xuân Diệu.
Xuân Diệu – nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Xuân Diệu – một trong ba đỉnh cao của thơ mới. Những tên gọi đầy trân trọng ấy đã xác lập một chỗ đứng riêng cho Xuân Diệu trong làng thơ, để đến tận hôm nay người đời vẫn không thôi nhắc đến và ngưỡng mộ.
“Hồn thơ Xuân Diệu là nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. Những lời bình phẩm sâu sắc ấy của Hoài Thanh dành cho Xuân Diệu có lẽ đã đủ nói về một hồn thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” – một hồn thơ lúc nào cũng “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”.
“Vội vàng” là một thi phẩm gói trọn hết thảy những cung bậc cảm xúc ấy, cũng có thể gọi đó như một bài thơ “rất Xuân Diệu”. “Vội vàng” bắt đầu bằng bốn câu thơ ngũ ngôn tưởng như lệch nhịp so với toàn bài, nói lên một ước muốn lạ thường:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Ngay những câu mở đầu, Xuân Diệu đã bộc bạch thổ lộ lòng mình trực tiếp bằng hai chữ “tôi muốn” đầy chủ động. Ước muốn ấy không phải dời non lấp bể, đắp lũy xây thành, đi “phù địa trục” như những bậc trí chủ thời xưa, mà là một ước muốn tưởng như dị thường: tắt nắng, buộc gió.
Thi sĩ muốn tắt nắng để màu không nhạt, muốn buộc gió để hương đừng bay – những ước muốn đoạt quyền tạo hóa. Vậy là hóa ra chẳng có ước muốn dị kì nào ở đây, điều thi sĩ muốn là níu giữ màu và hương bên đời để những gì tươi đẹp nhất không bị nhạt phai – một mong muốn chính đáng. Nhịp thơ nhanh, cách điệp câu nhịp nhàng, những câu thơ tựa như khúc dạo đầu đầy hứng khởi của một tâm hồn nồng nàn nhựa sống. Những câu thơ sau lí giải sâu hơn về lí do mà tâm hồn thi sĩ nảy sinh những ước muốn ấy.
Bằng con mắt “xanh non biếc rờn” cùng lòng yêu cuộc sống, bằng “toàn tâm, toàn trí, toàn hồn”, Xuân Diệu đã phát hiện ra cả một thiên đường trên mặt đất với bao màu sắc, âm thanh và ánh sáng:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Bức tranh cuộc sống hiện ra tựa như một bữa tiệc trần gian với chân thức sẵn bày, mời gọi hấp dẫn. Hai chữ “Này đây” được nhắc đến nhiều lần không gợi sự thừa thãi trong câu chữ, mà tô đậm không gian và thời gian thơ, đó là ngay lúc này và ở tại đây.
Nơi đây – nơi cuộc sống trần thế với bao điều hấp dẫn, chính là cái phần ngon nhất mà nhà thơ muốn ôm trọn vào lòng. Nơi có bướm ong dập dìu, yến anh tình tự. Nơi có màu xanh đồng nội, màu lá phất phơ. Nơi có âm thanh của khúc tình si, có ánh sáng của bình minh tựa như hàng mi chớp dịu. Tất cả đều gợi ra một bức tranh thiên nhiên ngồn ngộn sự sống, dạt dào sắc xuân.
Qua lăng kính luyến ái của thi sĩ, mọi thứ đều hiện lên có đôi có lứa, tươi ròng sự sống. Chính Xuân Diệu chứ không phải ai khác, đã “đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về hạ giới”, người “xây lầu thơ trên một tấm lòng trần gian”, luôn gắn bó sâu sắc với cuộc đời trần thế. Không “thoát lên tiên” mơ theo cảnh bồng lai như Thế Lữ, không tìm về chốn thôn quê để ủ mình trong yên bình như Nguyễn Bính, không lẩn trốn vào quá khứ nơi có những “bóng ma sợ soạng” như Chế Lan Viên, trong mắt Xuân Diệu, thế giới đẹp nhất là cuộc sống trần thế, tại đây và ngay lúc này. Chẳng thế mà từng có lần nhà thơ tự bộc bạch:
Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất
Nhưng có lẽ cái đặc sắc và để lại ấn tượng sâu nhất trong mỗi người là câu thơ: “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” – một câu thơ “hoàn toàn Xuân Diệu”. Thi sĩ đã hữu hình hóa cái vô hình, đã vật chất hóa một khái niệm thời gian bằng vị cảm. Và còn đặc biệt hơn, cái điều thi sĩ cảm được từ tháng giêng lại là một cặp môi gần của phụ nữ – nó vừa quyến rũ, vừa tươi hồng, vừa mời gọi.
Ta chợt ngộ ra, cái đẹp của con người trong mắt nhà văn mới là cái đẹp chuẩn mực. Chính con người mới là trung tâm cho mọi sự so sánh. Rõ ràng ở đây có cả một sự thay đổi lớn về quan niệm thẩm mỹ. Người xưa ví vẻ đẹp người con gái với hoa, núi, nước, mây, ví khí phách người anh hùng như mai, trúc, phượng, điểu.
Còn Xuân Diệu trong cái nhìn của một con người hiện đại lại chỉ luôn mong muốn tôn vinh con người.Chính niềm say mê tha thiết với hương sắc trần thế mà trong thi sĩ đã nảy sinh một xúc cảm khác: Lo sợ thời gian trôi sẽ làm nhạt phai thanh sắc của đời. Bởi thế mà ngay sau những câu thơ tươi vui kia, mạch thơ chuyển ngay sang những điệu thơ trầm lặng, trĩu nặng suy tư:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Xuân Diệu bằng nhãn quan tinh nhạy của mình, đã nhìn thấy cái đương qua ngay trong cái đương tới, cái sẽ già ngay trong cái còn non. Không phải ngẫu nhiên mà thi sĩ có những cảm xúc ấy. Đỗ Lai Thúy đã gọi Xuân Diệu là “Nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian”. Hơn một lần thi sĩ từng giục giã:
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi. Tình non sắp già rồi
Nhưng nghĩ một cách sâu hơn, thì có thể thấy tình yêu cuộc sống và nỗi ám ảnh thời gian của nhà thơ là hoàn toàn biện chứng. Càng yêu cuộc sống bao nhiêu, con người càng tiếc thời gian và tuổi trẻ bấy nhiêu, huống chi là Xuân Diệu – một người có khát khao giao cảm mãnh liệt với cuộc đời.
Với Xuân Diệu cái đẹp nhất trong cuộc đời mỗi người là mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Trôi qua những cái đó, cuộc đời chỉ còn là vô nghĩa. Nỗi ám ảnh và sự hối thúc về thời gian của nhà thơ còn cho ta một nhận thức về nhân sinh: Cuộc đời vô thủy vô chung, dòng đời trôi không đứng đợi, tuổi trẻ chẳng thắm lại lần hai và mùa xuân chẳng bao giờ quay lại. Triết lí ấy lại là một bước tiến vượt bậc trong tư tưởng của nhà thơ.
Người xưa quan niệm thời gian tuần hoàn, lấy sinh mệnh vũ trụ để tính vòng đời, họ tin đời người là kiếp luân hồi, đi rồi sẽ trở lại. Còn Xuân Diệu nhìn thời gian trong sự tuyến tính để có những nhận thức đúng đắn về đời người. Vậy là xét cho cùng, tiếc nuối thời gian âu cũng là một biểu hiện khác của lòng yêu cuộc sống. Và đúng như Hoài Thanh nói: “khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”.
Trước dòng đời ngược xuôi trôi dạt, đôi mắt tinh nhạy của người nghệ sĩ nhìn đâu cũng thấy chia li xa cách:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng buồn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa…
Tháng năm được cảm nhận qua mùi, qua vị. Mùi và vị của nó chính là chia phôi. Câu thơ được chuyển đổi cảm giác, sự tương giao giữa các giác quan khiến cho ta tưởng như người thi sĩ nhìn đâu cũng thấy chia lìa, đi đâu cũng thấy chia phôi. Cả đoạn thơ man mác bâng khuâng, ngậm một nỗi tiếc nuối bùi ngùi.
Tất cả hiện vật, sự vật trên thế gian đều không được vẹn tròn ngày vui. Núi sông thì buông lời than tiễn biệt, gió chim thì đều mang nỗi nợ phải bay đi, phải lìa tổ. Quả thật mọi cuộc vui đều có lúc tàn. Cảm nhận rất rõ được điều ấy, thi sĩ thốt lên trong sự tiếc nuối: “Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa…”, để rồi ngay sau đó là lời giục giã: “Mau đi thôi. Mùa chưa ngả chiều hôm”.
Sau những tiếc nuối ngậm ngùi, nhà thơ bộc lộ một khao khát mãnh liệt – khao khát được giao cảm tận độ với đời, hưởng trọn thanh sắc của thời tươi, khao khát tận hưởng và tận hiến:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Ba chữ “Ta muốn ôm” đứng biệt lập ở giữa đoạn thơ, gợi tư thế chủ động, tâm thế sẵn sàng của một chủ thể đang đứng giữa đất trời, dang rộng vòng tay đón trọn hương đời. Từ xưng “tôi” ở đầu bài thơ, nhà thơ chuyển sang xưng “ta” như nói lên một khát vọng chung cho mọi người – khát vọng hòa nhập.
Từ đó, một loạt cụm từ “ta muốn” xuất hiện trong mỗi dòng thơ – một cách bộc bạch lòng mình trực tiếp của một thi sĩ thơ mới có xúc cảm luôn nồng nàn. Những gì thi sĩ muốn là được giao cảm với thiên nhiên, với sự sống: từ mây, gió, cánh bướm đến tình yêu, cỏ cây, non nước. Mức độ giao cảm cũng dần mãnh liệt hơn: từ ôm, riết, đến say, thâu, và sau cùng là cắn.
Dường như thi sĩ muốn ôm cho hết, say cho tận, thâu cho cùng mọi điều đẹp nhất của cuộc đời, để được hưởng cảm giác “chếnh choáng, đã đầy, no nê”. Câu thơ cuối cùng như một sáng tạo đặc biệt, gợi cảm giác mạnh như một nốt vĩ thanh vút lên ở cuối bài trong một thi phẩm tràn trề cảm xúc cảm giác: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. “Xuân hồng” vừa gợi màu, vừa gợi vị, vừa đập vào thị giác, vừa tác động đến cảm giác.
Một lần nữa thi sĩ hữu hình hóa cái vô hình, coi xuân hồng như phần tươi ngon nhất của cuộc đời, muốn cắn và nuốt trọn nó. Một cái kết mạnh đã cho Xuân Diệu tổng kết triết lý nhân sinh của mình: Vì lẽ cuộc đời trôi đi không đứng đợi mà con người cần sống tận hưởng và tận hiến trong từng giây phút cuộc đời, nhất là khi còn đang ở tuổi trẻ. Đó là triết lý bất diệt với thời gian, mang giá trị nhân sinh cao cả.
Và một lẽ tất nhiên, để làm nên một chỉnh thể nghệ thuật không thể bỏ ngoài các yếu tố về hình thức nghệ thuật. Xuân Diệu “mới” không chỉ ở tư tưởng mà “mới” cả ở cách thể hiện. Thể thơ tự do với sự chuyển mạch, co duỗi linh hoạt theo cung bậc cảm xúc, các phép tương giao ảnh hưởng của thơ tượng trưng cũng sử dụng triệt để. Những câu thơ vắt dòng, từ ngữ táo bạo và hình ảnh tân kì cũng góp phần làm nên một thi phẩm “rất Xuân Diệu”.
Xuân Diệu lại một lần nữa góp vào thi đàn Việt Nam một tuyệt phẩm. Bên cạnh những vần thơ rất hay về tình yêu, còn có những vần thơ nhân sinh sâu sắc. Vội vàng xứng đáng được coi là một tuyệt tác cho mọi thời.
Dàn ý phân tích Vội vàng này giúp học sinh nắm vững cấu trúc bài văn. Các em có thể vận dụng linh hoạt để viết bài phân tích hoàn chỉnh và đạt điểm cao.