Phân tích Hoàng Hạc Lâu

Phân tích Hoàng Hạc Lâu là chủ đề quan trọng trong chương trình văn học phổ thông. Bài thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu không chỉ thể hiện tài năng xuất chúng của tác giả mà còn mang giá trị nghệ thuật và triết lý sâu sắc về nhân sinh.

Dàn ý phân tích Hoàng Hạc Lâu

Dưới đây là dàn ý chi tiết để tham khảo khi phân tích Hoàng Hạc Lâu, được biên soạn bởi đội ngũ giáo viên giỏi, có nhiều kinh nghiệm giảng dạy văn học.

Mở bài

Giới thiệu khái quát về tác giả Thôi Hiệu, một trong những danh thi của thời Đường. Đây là bài thơ tuyệt tác của Đường thi, giúp tác giả trở thành cái tên “Lưu danh thiên cổ”.

Giới thiệu chung về lầu Hoàng Hạc – công trình kiến trúc nổi tiếng bên bờ sông Trường Giang. Bài thơ thể hiện tâm hồn thi sĩ qua việc miêu tả cảnh vật và suy tư về nhân sinh.

Thân bài

Chia thành 2 phần chính tương ứng với cấu trúc 8 câu thơ của tác phẩm:

4 câu đầu: Tập trung tả cảnh, bàn chuyện xưa – nay
=> Suy nghĩ mang tính triết lý nhân sinh sâu sắc, bàn về sự còn – mất, vô hạn và hữu hạn của đất trời, nhân sinh.
Hình ảnh chim hạc vàng thể hiện sự linh thiêng và cao quý, nói đến cõi tiên và sự huyền ảo (Bay mất). Trong khi đó, lầu Hoàng Hạc thể hiện cõi trần (Còn lại).

Hai câu đầu:
“Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.”

2 câu thơ đối lập quá khứ với hiện tại: Tích nhân – Thử địa, hoàng hạc khứ – Hoàng Hạc lâu, đối lập xưa – nay, còn – mất, thực – hư, đối thanh. => Thể hiện tâm trạng hụt hẫng và có thêm tiếc nuối những điều quý giá đã qua, không thể quay lại được.

Hai câu sau:
“Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du”

Không chỉ có đối lập cõi tiên – trần, hạc vàng về trời còn Hoàng Hạc vẫn đứng lại nơi đây thể hiện sự mong nhớ.

Nghệ thuật:

  • 3 câu đầu lặp 3 lần từ “hoàng hạc”: Hạc vàng là biểu tượng sự quý giá, đẹp đẽ không trở lại được => Nhấn mạnh điều tốt đẹp đã qua không trở lại được.
  • Câu 4: 5/7 thanh bằng => Gợi cảm giác hụt hẫng và tiếc nuối, không muốn những đám mây trôi đi.
4 câu cuối: Cảm xúc dồn nén ở cõi tiên, cõi thực
=> Thể hiện nỗi sầu nhớ quê hương của thi sĩ.
Hai câu đầu:
“Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu”

Thể hiện không gian đẹp: Trăng soi xuống sông, hàng cây tươi tốt kết hợp màu xanh của hoa cỏ mùa xuân. 2 câu luận nhưng tả thực, gợi mở không gian rộng, sáng trong, khiến người đọc liên tưởng hình ảnh trăng soi xuống sông, mặt sông sáng màu xanh tươi mơn mởn của cỏ cây đầu xuân.

=> Sau khi đắm chìm với huyền thoại lại trở về với hiện thực. Hình ảnh lầu Hoàng Hạc soi bóng sông Trường Giang cùng cây cối, cỏ xanh tạo thành bức tranh đẹp.

Hai câu sau:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”

Đối lập giữa 2 câu luận: Không gian thực – Không gian tâm tưởng. Vừa thể hiện nỗi nhớ quê hương, tiếp mạch cảm xúc liên quan vấn đề có ý nghĩa triết lý.

Kết bài

Khái quát nội dung và nghệ thuật của bài thơ Hoàng Hạc Lâu. Tác phẩm có nhiều nét độc đáo, sử dụng thủ pháp đối lập một cách hiệu quả.

Dù miêu tả lầu Hoàng Hạc, nhưng tác giả đã truyền tải cảm xúc rất hay. Bài thơ khơi gợi tình yêu thiên nhiên và nỗi nhớ quê hương sâu sắc trong lòng độc giả.

Mẫu 1: Phân tích bài thơ Hoàng Hạc Lâu

Thôi Hiệu không phải nhà thơ có nhiều tác phẩm nhưng thơ của ông  thể hiện sự độc đáo nhưng vẫn mang đậm nét của thơ Đường. Bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” có cấu tứ súc tích, cách dẫn dắt khéo, gợi cảm giác như quay về thời xưa. Đó cũng là lời tâm sự thầm kín của nhà thơ về tâm tình thế thái, chuyện được mất ở đời.

“Hoàng Hạc Lâu” sử dụng tông màu buồn của cả thơ và để chỉ cuộc đời con người. Thơ mang nhịp chậm, nhẹ nhàng có lẫn tình cảm chua xót lẫn tiếc nuối.

Mở đầu bài thơ là 2 câu đề mang viễn cảnh hoang tàn và cô độc:

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu

Mà nay Hoàng Hạc riêng lâu còn trơ

Thôi Hiệu mượn điển tích “Hạc vàng” trong truyền thuyết của Phí Văn Vi. Bản thân lầu Hoàng Hạc cũng là nơi chứa đựng nhiều truyền thuyết hay các câu chuyện hóa tiên của  nhân vật lịch sử.  Những năm tháng hào hùng ấy gợi nhắc chúng ta về thời vàng son mà nơi đây từng có. Ấy vậy mà đến câu đề thứ hai giọng thơ chùng xuống hoàn toàn, đem lại cảm giác lạc lõng và trơ trọi nơi đó. Chỉ một chữ “trơ” đã khiến câu thơ não nề, cô đọc đi biết bao. Đây cũng là thủ pháp đối lập được tác giả sử dụng nhuần nhuyễn khi ngày xưa đẹp thì nay hoang tàn. Thôi Hiệu viết 2 câu thơ ngắn nhưng kết hợp nhuần nhuyễn biện pháp tu từ đã giúp người đọc tưởng tượng ra bức tranh hoang tàn nơi Hoàng Hạc lâu. Đó cũng là lời dẫn cho những dòng cảm xúc tiếp theo mà tác giả muốn đề cập:

Hạc vàng đi mất từ xưa

Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay

Lầu Hoàng Hạc ngày xưa gắn liền với những câu chuyện ngày xưa nhưng hiện tại chỉ là “trăng trong nước”. Thôi Hiệu như đang nhớ về những ngày tháng xưa thể hiện sự nuối tiếc cho khung cảnh đối lập đầy thê lương, tiêu điều và vắng lặng. Câu hỏi tu từ được đặt ra như để hỏi người khác nhưng thực tế là dành cho chính mình, sự tiếc thương cho chuyện cũ đã qua.

Sử dụng thơ để tả cảnh, chỉ trong vài nét bút, Thôi Hiệu đã khéo léo vẽ nên nét buồn cũng toát lên tâm tư, tình cảm nặng nề trong tim tác giả. Đó cũng là nỗi u uất, cảm nhận của ông về chuyện đời, chuyện người, chuyện nhân tình thế thái.

Câu luận được nhà thơ sử dụng để vẽ lên vẻ đẹp thiên nhiên đượm buồm nơi đây:

Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.

Hán Dương và Anh Vũ đều là những địa điểm gắn liền với Lầu Hoàng Hạc. Hình ảnh cỏ non xanh, sông phẳng lặng vừa đẹp vừa cô liêu khiến người ta buồn thêm buồn, sầu lại sầu thê. Đây là thủ pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, lấy xa nói gần mà Thôi Hiệu dùng nhuần nhuyễn trong 2 câu luận này.

Với hai câu kết, sự tiếc nuối bùng lên mãnh liệt, được nhà thơ tả gọn trong câu thơ:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói song cho buồn lòng ai

Sắc thơ cổ điển của thời Đường bao trùm toàn bài với đầy đủ cấu tứ với nghiêm luật chặt chẽ. Cạnh đó tác giả sử dụng hình ảnh tượng hình, gợi lên nỗi nhớ nhà và nhớ quê trào dâng, cảm giác cô liêu đượm buồm mà sâu sắc. Người ta không còn biết hay phân biệt được sóng cuồn cuộn là sóng sông Trường Giang hay đáy lòng tác giả. Hình ảnh nàyk khiến người ta liên tưởng đến những câu thơ của Thâm Tâm cũng là sự day dứt, dậy sóng không rõ là của cảnh hay của người:

Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng song ở trong lòng.

Ở đây, nhịp thơ dãn hơn thay vì dồn dập như những câu trước đó, nhịp chậm, đều gợi cảm giác buồn thương, kèm theo đó câu từ làm người đọc hiểu được nỗi nhớ nhà và quê hương da diết mà tác giả muốn truyền đạt.

Bài thơ “Hoàng Hạc lâu” mang tính đột phá nếu so sánh với kiểu thơ cổ của nhà Đường ngày ấy. Những câu thơ ngụ cảnh tả tình đặc sắc vừa khắc họa nên bức tranh thiên nhiên đẹp và cũng là đôi lời trăn trở tâm sự của nhà thơ Thôi Hiệu về nỗi nhớ quê hương da diết.

Mẫu 2: Phân tích bài thơ Hoàng Hạc Lâu

Thôi Hiệu là nhà thơ với chất thơ phóng khoáng, tao nhã và lãng mạn. Bút pháp của ông được ghi nhận trong bài Hoàng Hạc Lâu (1 trong số ít tác phẩm của nhà thơ được công nhận). Cũng chính bài thơ này đã giúp ông ghi danh tên tuổi vì khả năng vận dụng thể thơ Đường điêu luyện và sáng tạo.

Hoàng Hạc lâu là bức tranh thiên nhiên đẹp về cảnh sắc nơi đây. Khi đến thăm lầu Hoàng Hạc, nhà thơ Thôi Hiệu nhớ đến những câu chuyện xưa, điển tích xưa và đưa ra những nuối tiếc cũng là triệt lý về cuộc sống. Bản thân thơ Đường đã có sẵn sự súc tích cô đọng với 2 câu đề, 2 câu thực, 2 câu luận và 2 câu kết. Bằng biến tấu của mình, Thôi Hiệu đã thổi hồn cho bài thơ tả cảnh kèm theo chút ý vị nhân sinh mà ông gửi gắm.

Vì đang được ở nơi có trong tích xưa và cũng mang vẻ đẹp hiếm thấy, tác giả mượn chuyện cũ để tả cảnh vật hôm nay. Nguồn gốc của lầu Hoàng Hạc được Thôi Hiệu kể đủ qua 2 câu thơ đề:

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,

Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.

(Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,

Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.)

Lầu Hoàng Hạc dường như đang trơ trọi giữa một khoảng không rộng, bao la, hông còn sức sống hay dáng người. Nơi đây đã trở nên hiu hút, không còn có chút hình ảnh của ngày xưa, từ trong điển tích ngàn đời. Hiện tại, lầu Hoàng Hạc chơ vơ 1 mình, cô quạnh bên bãi sông khiến thi nhân phải chạnh lòng. Bằng cách chèn điển tích và tạo hiệu ứng đối lập, nhà thơ đã giúp người đọc cảm nhận được nỗi buồn cô đơn, cảm giác vừa thương tiếc vừa là sự hoài niệm về những ngày tháng huy hoàng trước đó. Tất cả đem lại một tâm trạng: xót xa về thứ đã có và nay không còn được như xưa. Nơi đây bây giờ chỉ còn “trơ” một Hoàng hạc lâu, một chứng nhân lịch sử chứa đựng những câu chuyện cũ. Đó là sự trống vắng, hụt hẫng trong tâm hồn, là vương vấn cho quá khứ đã qua. Để rồi, tác giả lại tiếp tục mang thêm cảm giác day dứt ấy trong 2 câu thực:

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,

Bạch vân thiên tỉa, không du du.

(Hạc vàng một khi đã bay đi, không trở lại nữa,

Mây trắng nghìn năm lởn vởn hoài.)

Không phải ngẫu nhiên mà “hoàng hạc” được lựa chọn sử dụng tại đây. Cánh hạc vàng thường được nhắc đến trong câu chuyện thần tiên, cánh chim bay không trở lại đối lập với áng mây ngàn năm vẫn còn đó là biện pháp tu từ được tác giả sử dụng để bình về triết lý nhân sinh của đời ngời. Khung cảnh chính là cảm xúc ngậm ngùi, tiếc nuối của Thôi Hiệu cho những thứ huy hoàng đã qua, có lẽ để nhấn mạnh điểm ấy, ông không ngại việc lặp từ mà sử dụng đến 3 lần “hoàng hạc” trong 4 câu thơ đầu. Tâm trạng của ông là sự luyến tiếc, là cảm giác buồn thương khi có những thứ vẫn còn đây nhưng vì sao lầu Hoàng Hạc không còn được như xưa mà lại mang cảm giác cô đơn và tịch mịch.

Sự trống trải của Thôi Hiệu đã hòa với khung cảnh thiên nhiên, có thể chính ông cũng đang nghĩ về những kỉ niệm,  những thứ đã qua trong đời mình để rồi phải tiếc nuối thời gian không thể quay trờ lại. Có những thứ vẫn còn đó, nhưng cũng có những sự vật, sự việc đã đi mãi mãi không thể quay trở lại. Sự đối lập trong hai câu thơ này không chỉ là giữa hiện thực và quá khứ mà còn là phép đối cho cõi trần và cõi tiên.

Hạc vàng cũng đã theo thần đi mất, để lại lầu son nơi đây chỉ con tr trọi 1 mình. Bốn câu thơ đầu đã tập trung tả cảnh và cũng để kể lại câu chuyện, giải thích lí do cho sự vắng vẻ ngày nay. Bàn về chuyện quá khứ và hiện tại để suy ngẫm về nhân sinh, đưa ra triết lí còn mất cho độc giả cảm nhận, trong chính câu thơ cũng đã để lại cho chúng ta một cảm giác phảng phất, dù ít hay nhiều “thời gian quý như vàng”.

Thiên nhiên như bức tranh sơn thủy được Thôi Hiệu mô tả với màu sắc hài hòa, nhẹ nhàng, lắng đọng:

Hán Dương sông tạnh cây bày,

Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.

(Tinh xuyên lịch lịch Hán Dương thụ.

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.)

Ông dùng chữ để vẽ nên bức tranh thiên nhiên với không gian rộng mở, thành bình, êm ả và tĩnh lặng. Bức tranh cảnh vật lặng yên như tờ với dòng sông, cỏ xanh nhưng lại thiếu đi sức sống của các sinh vật và con người. Cảm nhận của ông về lầu Hoàng Hạc bên sông Trường Giang đã khắc họa rõ nét qua những miêu tả về cây cối, cỏ xanh. Hai địa danh được sử dụng là Hán Dương và Anh Vũ cũng gắn liền với lầu Hoàng Hạc.

Nhìn cảnh lại khiến Thôi Hiệu nhớ về quê hương, không gian chiều hoàng hôn cũng gợi nên tâm trạng nhà nhà da diết của tác giả:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

(Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.)

Bóng chiều buông xuống, con người dường như cũng cô đơn hơn khi đứng trước cảnh vật tĩnh lặng. Ngắm nhìn con sông, cánh nước người ta lại cảm nhận nhiều hơn, sẵn sàng đối diện với lòng mình. Câu hỏi tu từ đặt ra không rõ để hỏi ai hay hỏi chính mình mang đết sự day dứt trong ông trước thiên nhiên và nỗi nhớ của mình với quê nhà.

Bài thơ Hoàng Hạc lâu đã để lại giá trị to lớn, mang nét đặc sắc phá cách của dòng thơ Đường. Không thực sự tuân thủ theo nghiêm luật, tác giả vận dụng một cách nhuần nhuyễn các quy tắc gieo vần có mới, có cũ để tả cảnh đồng thời khắc họa nên tâm trạng con người trước khung cảnh thiên nhiên đượm buồm, sâu sắc.

Mẫu 3: Phân tích bài thơ Hoàng Hạc Lâu

Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu được mệnh danh là bài thơ vịnh cảnh ấn tượng. Theo Tân Văn Phong (nhà Nguyên) nhắc đến trong sách Đường Tài tử truyện: Ngày đó, Lý Bạch lên Hoàng Hạc lâu định làm thơ nhưng thấy tác phẩm Thôi Hiệu để lại đã quá xuất sắc nên thôi không làm nữa mà nhận định: “Nhân tiền hữu cảnh đạo bất đắc. Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu”.  (Cảnh bày trước mắt phổ không được, Thôi Hiệu làm thơ tả hết rồi).

Dù câu chuyện trên chưa chắc có thật mà chỉ là hư cấu của người đời sau, chúng ta đọc thơ Lý Bạch phải thừa nhận, trong thơ ông đã có 2 bài ảnh hưởng bởi Hoàng Hạc Lâu là Anh vũ châu (Bãi Chẹt) và Đăng Kim lăng Phượng Hoàng đài (Lên lầu Phượng Hoàng ở Kim lăng). Từ đó, ta thấy hiểu giá trị nghệ thuật của Hoàng Hạc Lâu do Thôi Hiệu sáng tác đã được công nhận từ ngàn đời xưa. Để khẳng định luận điểm này, trong sách “Thương lang thi thoại”, Nghiêm Vũ (đời Tống) cũng từng nói  ”Đường nhân thất ngôn luật thi, đương dĩ Thôi Hiệu Hoàng hạc lâu cư đệ nhất” (Thơ luật bảy chữ đời Đường, phải xếp bài Hoàng hạc Lâu của Thôi Hiệu là hàng thứ nhất).

Hoàng Hạc lâu được dựng trên mỏm đá Hạc vàng bên sông Trường Giang, gắn liền với nhiều truyền thuyết hóa tiên xa xưa. Và 2 câu đề, Thôi Hiệu đã viết:

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,

Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.

Chuyên xưa tiên cưỡi hạc vàng bay đi chưa biết thực hư ra sao, nhưng đến hôm nay, lầu Hoàng Hạc bên bờ sông trống trải tiêu điều làm sao. Câu đầu tiên, tác giả mượn lại điển tích kể về Vương Tử An thành tiên cưỡi hạc từ trên lầu viết lại thành thơ. Đến câu sau lại là dòng tâm sự, nỗi buồn tiếc cho quang cảnh tiêu điều nơi đây.

Hạc vàng đã bay, năm tháng trông lên trời mây trắng vẫn còn đó nhưng cảnh đã không còn như xưa. Những câu thơ nghe có vẻ đơn giản nhưng lại gợi đến cảm giác buồn bã, tiếc nuối quá khứ, có những thứ vẫn vậy nhưng cũng nhiều thứ đã thay đổi.

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,

Bạch vân thiên tải không du du.

Bút pháp tài tình của nhà thơ đã giúp chúng ta hình dung được quang cảnh ấy. Khi sông, nước, mây vẫn nguyên vẹn như vậy nhưng nay lầu hoàng hạc thật tiêu điều cô đơn. Đây cũng là chiêm nghiệm của Thôi Hiệu về đời về người về những sự tình trong cuộc sống.

Bốn câu thơ đầu tác giả đã phóng bút như tùy ý nhưng lại liên ết thật chặt chẽ. Mạch thơ liên tục, chậm chạp mang nét buồn thương nhưng cũng cuốn hút khiến người ta không thể dứt ra. Cách tác giả dùng “hoàng hạc: đến 3 lần trong 4 câu thơ là phép lặp để nhấn mạnh ý thơ và mạch thơ, dù trùng nhưng người đọc vẫn cảm thấy mọi thứ thật tự nhiên.

Luật bằng trắc theo thơ Đường Thất ngôn cũng không được tác giả tuân thủ nghiêm ngặt (dù đây là nguyên tắc bất di bất dịch). Không gieo vần chuẩn cũng cố ý lặp từ, cách viết đầy sáng tạo đã làm nên chất riêng cho bài thơ này của ông. Có lẽ vì vậy, Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu mới được mệnh danh là chất riêng, thổi hồn mới cho thơ Đường. Chính những người cùng thời với ông cũng phải cảm thán cho cách viết rất “lạ” này. Khi Thẩm Đức Tiềm trong sách Đường thi biệt tài có nói ” “ỷ đắc tượng tiên thần hành ngữ ngoại, tung bút tả khứ toại thiên cổ chi kỳ”. (Dựng ý trước hình ẩn thần ngoài chữ, phóng bút mà viết nên những câu lạ nghìn đời).

Bài thơ không tuân theo quy luật thơ Đường với 4 câu thơ đầu nhưng ở các câu sau đó, Thôi Hiệu đã thổi lại vào đó đúng chất của dòng thơ cổ. Để bài thơ vẫn đúng chất của thời đại nhưng vẫn mang hơi hướng mới, lạ hơn rất nhiều. Ở hai câu luận, nhà thơ đã mơ ra ý chuyển tiếp, mô tả cảnh thiên nhiên ở Hoàng Hạc tại thời điểm đó:

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.

Cách lặp từ giúp câu thơ trở nên đặc sắc hơn. Các địa điểm như Hán Dương và Anh Vũ cũng gắn liền với lầu Hoàng Hạc. Nhà thơ mô tả nơi đây thật yên bình êm vả với dòng sông trong vắt soi bóng cây và cỏ thơm trên bãi, nhưng bức tranh ấy cũng thật đượm buồm và như không có sức sống. Mấy chữ “Phương thảo thê thê” được nhà thơ lấy từ bài Chiêu ẩn sĩ “Vương tôn du hê bất quy, xuân thảo sinh hề thê thê”. Nghĩa là: Chàng đi chơi đến giờ vẫn không về, cỏ xuân đã mọc mượt mà. Cả 2 câu đều ngụ ý cảnh đã thay đổi nhiều nhưng theo hướng tiêu điều, thê lương.

Hai câu kết được nhà thơ sử dụng để gửi gắm tâm trạng trong thơ:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Thôi Hiệu kéo người đọc từ cõi mơ, cõi thần tiên, quá khứ mông lung, hư ảo về đến hiện thực và ở đó có hình ảnh quen thuộc: hoàng hôn, quê hương, sóng trên sông. Những hình ảnh thể hiện tình cảm, tâm trạng được tác giả dùng nhuần nhuyễn. Từ xa xưa, cảnh hoàng hôn đẹp nhưng luôn mang theo đó tâm trạng buồn bã, cô liêu, ở đây nhà thơ cũng dùng nó để gắn với nỗi nhớ quê hương da diết.

Kết thúc bài thơ là câu hỏi tu từ “nhất mộ hương quan hà xứ thị?” để hỏi người khác hay hỏi chính bản thân, chưa ai có thể đưa ra câu trả lời. Cạnh đó, chính ông cũng mô tả sóng sông hay sóng lòng cũng là điểm khiến bao thế hệ sau phải phân tích với “trên sông khói song cho buồn lòng ai?” (theo bản dịch của Tản Đà).

Cảnh sắc hoàng hôn khiến ông nhớ đến quê nhà, nhớ đến quê hương. Nghệ thuật thơ đặc sắc nhìn cảnh khắc tình tô vẽ nên bức tranh đẹp đượm buồm. Rõ ràng tất cả đã tạo nên sự thành công của Hoàng Hạc Lâu, bài thơ tuyệt tác được công nhận đến ngàn đời sau.

Mẫu 4: Phân tích bài thơ Hoàng Hạc Lâu

Thơ nhà Đường là thời đại với nhiều nhà thơ nổi tiếng như Đỗ Phủ, Lý Bạch, Vương Xương Linh,… và nhiều hơn thế, giúp cho văn học Trung Hoa thời điểm này phát triển mạnh mẽ. Dù Thôi Hiệu không phải nhà thơ lớn được đánh giá ngang hàng với các đại thi hào kể trên, ông cũng có tác phẩm làm nên tên tuổi, khiến người ta nhớ mãi về khả năng biến hóa khôn lường nghiêm luật, sáng tạo trong cách vận dụng quy tắc cũ, làm nên cái mới trong thơ của mình với bài Hoàng hạc lâu.

Hạc vàng nào còn cưỡi vút

Nay lầu Hoàng Hạc cô tịch trơ trọi

Hoàng Hạc lâu gắn liền với câu chuyện thần tiên và cũng là quá khứ huy hoàng nơi đây. Tác giả sử dụng hình ảnh đắt giá là “hạc vàng” gợi hình, gợi tả đồng thời nhắc ta nhớ về điển tích xưa. Đối lập với nó là hình ảnh của hiện tại khi lầu son gác tía phải cô tịch và đứng trơ một mình. Tác giả vẽ nên bức tranh giúp ta liên tưởng về quá khứ, kéo theo đó là hình ảnh hiện tượng gợi sự mất mát, tiếc nuối trước sự thay đổi của cảnh vật sau thời gian thoi đưa. Dù lầu Hoàng hạc có lẽ vẫn kiêu hùng nơi đó nhưng đã không còn bóng dáng con người, không còn tấp nập, không còn ánh hào quang mà ngược lại thật lạc lõng và lạnh lẽo.

Sức mạnh của thời gian không chừa một ai, đặc biệt khi đất nước phải trải qua nhiều biến động từ thăng trầm lịch sử đến chiến loạn thời cuộc, hôm nay, người thi sĩ đứng đây ngắm nhìn cảnh vật thấy lòng như lắng lại. Ông để lòng mình hồi tưởng về những ngày đã qua, ông nhớ lại, hụt hẫng, tiếc nuối khôn nguôi:

Hạc vàng bay mất từ xưa

Nghìn năm mây trắng vẫn trôi bày

Cánh hạc bay mất như đã mang theo những huy hoàng ngày ấy. Để rồi bây giờ, lầu Hoàng Hạc vẫn còn đây, mây vẫn cứ bay nhưng cảnh sắc đã không còn như xưa. Sự đối lập về không gian và thời gian đã khiến ta có sự liên tưởng và so sánh sâu sắc giữa quá khứ và hiện tượng, giữa chốn thần tiên ảo mộng trong truyền thuyết và thực tế bây giờ. Đồng thời, câu thơ cũng là chiêm nghiệm của nhà thơ về cuộc đời, về dòng thời gian. Có thể sẽ có những thứ không thay đổi khi ngày tháng dần qua nhưng chắc chắn cũng có những thứ khiến chúng ta không còn nhận ra vẻ huy hoàng của quá khứ.

Chiêm nghiệm có và mất là luật lệ tự nhiên nhưng khiến người đọc cảm thấy thật mất mát. Bằng cách mô tả tinh tế, hình ảnh chọn lọc, Thôi Hiệu đã vẽ nên bức tranh đặc sắc nhưng cũng giàu ý nghĩa.

Hán Dương sông êm, cây xanh bóng bày,

Bãi xưa Anh Vũ mênh mông cỏ non

Bên bờ sông Hán Dương vẫn còn cây xanh, nắng đẹp, nước chảy êm đềm. Ở bãi Anh Vũ mênh mông cỏ non cũng vẽ nên bức tranh thiên nhiên tươi mát nhưng dường như tiêu điều. Bởi ngày xưa, nhiều người thường nhắc đến cỏ mọc xanh để chỉ thời gian thoi đưa, cây cỏ tốt tươi nhưng người vẫn chưa quay về. Đặc biệt, trong bức tranh Thôi Hiệu tạo nên cũng không thấy hình bóng con người, càng làm chúng ta cảm nhận được cảm giác nơi đây đã bị quên lãng, không còn dáng dấp của căn lầu ngày xưa là nơi hạc tiên ghé đến. Cạnh đó, bức tranh thiên nhiên ấy cũng khiến nhà thơ nhớ đến nhiều thứ:

Quê hương khuất sau bóng hoàng hôn,

Trên sông, khói sóng, ai buồn lòng.

Bài thơ Lầu Hoàng hạc ngắn gọn với 8 câu tuân thủ quy tắc của thơ Đường nhưng đã khắc họa nên nét đẹp bức tranh thiên nhiên. Tuy 4 câu đầu Thôi Hiệu không tuân thủ đúng nghiêm luật nhưng chính điều này đã làm nên nét đặc sắc trong thơ của ông. Toàn bài khiến người ta động lòng trước vẻ đẹp thiên nhiên cũng phảng phất nỗi buồn, nỗi tiếc thương của tác giả và gợi nhớ đến quê hương.

Dàn ý phân tích Hoàng Hạc Lâu này giúp học sinh nắm vững cấu trúc bài văn. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho việc học tập môn văn học.

Để lại một bình luận