Phân tích Lão Hạc – truyện ngắn nổi tiếng của Nam Cao là chủ đề quan trọng trong chương trình văn học phổ thông. Tác phẩm khắc họa chân thực số phận bi thảm của người nông dân nghèo qua hình ảnh lão Hạc – một con người lương thiện nhưng bất hạnh.
Dàn ý phân tích Lão Hạc
Dưới đây là dàn ý phân tích Lão Hạc chi tiết để các em học sinh tham khảo. Dàn ý được biên soạn bởi đội ngũ giáo viên giỏi, có nhiều kinh nghiệm giảng dạy văn học.
Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu về truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao. Khẳng định đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học hiện thực Việt Nam.
Thân bài
1. Câu chuyện Lão Hạc bán chó và sự day dứt của lão
a. Hoàn cảnh của lão Hạc:
- Một ông nông dân già yếu, không nơi nương tựa: sống một mình, tự kiếm ăn nuôi thân, con trai bỏ đi đồn điền cao su.
- Sau một trận ốm, trong nhà không còn gì để ăn, lão quyết định bán cậu Vàng – kỉ vật mà anh con trai để lại, không chỉ là một con vật mà còn giống như một người bạn.
⟹ Hoàn cảnh vô cùng khó khăn, khổ cực.
b. Diễn biến tâm trạng của Lão Hạc xoay quanh việc bán cậu Vàng:
– Tình cảm đối với cậu Vàng:
- Cho ăn bằng một cái bát lớn như của nhà giàu, có gì ăn cũng gắp cho nó cùng ăn.
- Khi rảnh rỗi còn đem nó ra tẳm rửa, bắt giận.
- Mỗi khi lão uống rượu có đồ nhắm ngon lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con cháu trong nhà.
- Thường xuyên tâm sự với nó, vỗ về ôm ấp.
⟹ Đối xử giống như với một con người. Từ tượng hình, từ tượng thanh
– Quyết định bán cậu Vàng: vô cùng khó khăn, trăn trở giống như phải quyết định một việc trọng đại trong đời.
– Diễn biến tâm trạng sau khi bán chó: Sáng hôm sau, lão Hạc sang nhà ông giáo kể lại toàn bộ sự việc.
- Cố làm ra vẻ vui mừng: “Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ”, nhưng thực ra lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậc nước.
- “Mặt lão đột nhiên co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra”
- Lão hu hu khóc…
- Tự trách bản thân mình đã già rồi còn đi lừa một con chó: “Khốn nạn… Ông giáo ơi!… như thế này à?”
- Chua chát bảo với ông giáo: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta phải hóa kiếp cho nó…”
- Lão cười và ho sòng sọc, Lão nói xong lại cười đưa đà… Nụ cười dường như để nén đi nỗi đau đơn khi mất đi “người bạn” duy nhất.
⟹ Nam Cao đã khắc họa chân thực nỗi đau khổ, day dứt của Lão Hạc sau khi bán cậu Vàng.
2. Cái chết đầy bất ngờ của Lão Hạc
– Lão Hạc nhờ cậy ông giáo hai việc:
- Trong nom hộ mảnh vườn, khi thằng con trai về sẽ giao lại cho nó.
- Mang hết tiền dành dụm được nhờ ông giáo giữ hộ để khi mình chết thì nhờ ông giáo và bà con lo liệu ma chay cho mình.
⟹ Chuẩn bị trước cho cái chết của bản thân.
– Diễn biến:
- Lão đến xin Binh Tư một ý bả chó và nói dối rằng dạo này có con chó hay đến vườn nhà lão nên muốn đánh bả nó. Nếu được lão sẽ mời hắn uống rượu.
- Nhưng thực ra lão Hạc dùng số bả chó ấy để tự tử.
– Hình ảnh lão Hạc khi chết đầy ám ảnh: “Lão Hạc đang vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người lão chốc chốc lại bị giật mạnh một cái. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết.”
⟹ Cái chết dữ dội, đau đớn và thê thảm của một con người lương thiện.
Kết bài
Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Lão Hạc. Nhấn mạnh ý nghĩa hiện thực và nhân văn sâu sắc của truyện ngắn.
Mẫu 1: Phân tích Lão Hạc
Tác giả Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, quê ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Ông là cây bút sáng giá chuyên viết văn học hiện thực thời kỳ trước cách mạng tháng Tám và được mệnh danh là bậc thầy của truyện ngắn tại Việt Nam.. Nam Cao viết nhiều vẻ đẹp của nông dân trong cái đói khổ, dù họ bị dồn ép đến đường cùng nhân nhân cách vẫn tỏa sáng. Truyện ngắn Lão Hạc là một trong những tác phẩm tiêu biểu thể hiện cái nhìn nhân đạo ấy.
Nhân vật chính trong câu chuyện là một lão nông dân nghèo tên lão Hạc. Mặc dù gặp nghèo khó là thế, nhưng lão vẫn giữ được cho mình bản chất lương thiện và lòng tự trọng đáng kính. Thông qua nhân vật này, tác giả Nam Cao muốn người đọc thấy rõ được tình cảnh khốn cùng và số phận đáng thương của nông dân Việt Nam trong chế độ phong kiến. Người kể truyện trong tác phẩm này là ông giáo, hàng xóm thân thiết với lão Hạc. Qua lời kể của ông, câu chuyện của lão Hạc trở nên gần gũi và chân thực hơn.
Tác giả Nam Cao có cách dẫn dắt độc đáo để đọc giả tưởng như đang sống trong câu chuyện, vui buồn với nhân vật. Từ đó, ta có thể cảm nhận được suy nghĩ và hành động của lão Hạc khi rơi vào hoàn cảnh bi thảm. Tác giả quả xứng danh với bậc thầy truyện ngắn khi dễ dàng kết hợp kể và tả, hiện tại và quá khứ giữa hiện thực và trữ tình để viết nên câu chuyện. Giọng văn được sử dụng linh hoạt, ở đó có hối hận, bất ngờ đến đồng cảm & cũng có những dằn vặt riêng tư của nhân vật. Tất cả đã đẩy cảm xúc của độc giả lên đến đỉnh điểm, để họ có sự thương cảm sâu sắc về thân phận con người tại thời điểm đó.
Tác giả vẽ nên gia cảnh của Lão Hạc không thể khổ hơn khi vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất lại phải bỏ vào Nam làm đồn điền cao su vì không có tiền lấy vợ, chẳng tin tức gì. Dù vậy nhưng lão vẫn dồn tất cả tình yêu thương cho con & sẵn sàng hy sinh để con được hạnh phúc.
Thương con, lão Hạc đau đớn vì không thể giúp còn hoàn thành tâm nguyện, ông dằn vặt hằng ngày rồi lại mòn mỏi chờ con về. Ngày ngày, ông quanh quẩn làm thuê để kiếm cái ăn, cái mặc nhưng vẫn nhất quyết giữ mảnh vườn và không động vào số tiền dành dụm cho con. Để rồi “sau một trận ốm nặng kéo dài, lão thấy người yếu đi ghê lắm“. Dường như tình huống truyền dần lên đến đỉnh điểm khi tất cả số tiền lão tích cóp bấy lâu nay đã cạn kiệt. Khó khăn hơn khi trận bão lớn vừa qua đã phá sạch hoa màu trong vườn. Để rồi, tất cả sự bất hạnh đều ập đến, ông lão buộc phải ra quyết định, ông bán con chó Vàng thân thiết – kỷ vật con trai để lại, lão sang nhờ cậy ông Giáo.
Cách dẫn chuyện của ông Giáo từ từ, nhưng vẫn khiến người đọc cảm nhận được mạch cảm xúc của toàn truyện, của lão Hạc và của chính ông Giáo. Bởi mở đầu, Lão Hạc kể ngay cho ông chuyện đã bán cậu Vàng, con chó được ông gọi một cách trìu mến và cho ăn cơm bằng chiếc bát lành lặn. Với lão, cậu Vàng là tri kỷ, là bạn tâm giao để nói chuyện, để tâm sự thì thầm to nhỏ khi nhớ con trai. Chính vì quá gắn bó nên trước đó, Lão Hạc đã mấy lần định bán cậu nhưng rồi lại không bán nổi. Cuối cùng, cái nghèo vẫn khiến lão phải chạm đến giới hạn cuối cùng. Bởi bây giờ cơm còn không có mà ăn, lấy gì nuôi Cậu Vàng. Số tiền ít ảo Lão để được cho con trai từ bán hoa lợi Lão cũng không muốn động vào bởi trước đó Lão cũng đã dùng quá nhiều vì đau ốm. Thế rồi Lão vẫn ra quyết định bán cậu trong sự dằn vặt ít ai có thể hiểu nổi.
Ông Giáo kể lại, lời của Lão Hạc chứa đầy sự xúc động và xót xa khi kể về cảnh bán cậu Vàng. Trong thâm tâm ông hiểu rõ, Lão Hạc đã đau khổ, dằn vặt, tự trách mình như thế nào, vì lão cảm thấy mình có lỗi với con chó “già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó. Cả đời, ông lão nhân hậu này nào đã nỡ lừa ai!”. Qua lời ông Giáo, thái độ và cử chỉ của lão Hạc lại càng đáng thương hơn. “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước… Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…” Cứ như vậy, nỗi khổ tâm của ông lão già, nghèo khó lại hiện lên chồng chất, chỉ vì chữ nghèo mà phải cư xử không đàng hoàng với con chó mà mình hết mực chăm sóc.
Chính qua lời kể của ông Giáo lại khiến ta lần nữa hiểu hơn về tấm lòng của Lão Hạc, rằng ông là một người đôn hậu và chất phác. Cả cuộc đời mình sống quanh quẩn bên lũy tre nên những tính toán của ông thật đơn giản.Lão cũng tìm đến ông Giáo để chia sẻ tâm sự và quan trọng hơn là tìm một chỗ dựa tinh thần. “Và lão kể. Lão kể nhỏ nhẻ và dài dòng thật. Nhưng đại khái có thể rút vào hai việc. Việc thứ nhất: lão thì già, con đi vắng, vả lại nó cũng còn dại lắm, nếu không có người trông nom thì khó mà giữ được vườn đất để làm ăn ở cái làng này. Tôi là người nhiều chữ nghĩa, nhiều lí luận, người ta kiêng nể, vậy lão muốn nhờ tôi cho lão gửi ba sào vườn của thằng con lão, lão viết văn tự nhượng lại cho tôi để không ai còn tơ tưởng dòm ngó đến; khi nào con lão về thì nó sẽ nhận vườn làm, nhưng văn tự cứ để tên tôi cũng được, để thế để tôi trông coi cho nó… Việc thứ hai: lão già yếu lắm rồi, không biết sống chết lúc nào, con không có nhà, lỡ chết không ai đứng ra lo cho được; để phiền cho hàng xóm thì chết không nhắm mắt; lão còn được hăm nhăm đổng bạc với năm đồng bạc vừa bán chó là ba mươi đồng bạc, muốn gửi tôi, để lỡ có chết thì tôi đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả…” Lời tâm sự của ông khiến không ai không xót thương, khâm phục. Có thể thấy, Lão là người cha dù chịu hoàn cảnh khó khăn những cũng vẫn muốn dồn hết tất cả cho con cái, dành cho con tình yêu lớn lao nhất, cho đứa con duy nhất của đời mình. Đồng thời, lão cũng chẳng muốn liên lụy tới ai bởi ngoài mảnh vườn để lại cho con, Lão vẫn gửi ông Giáo ba mươi đồng nhờ hỗ trợ chuyện chôn cất, là người có lòng tự trọng, có phẩm giá, là một người nông dân với phẩm chất tốt đẹp, bị xã hội chà đạp mà bước đến đường cùng.
Chính Lão cũng hiểu được rằng, số tiền ba mươi đồng bạc có thể giúp Lão sống lay lắm thêm một thời gian nhưng cũng chỉ có thể. Vì vậy, thà rằng Lão chọn cái chết để bảo toàn tài sản còn lại cho con trai. Lựa chọn này xuất phát từ lòng thương con âm thầm mà sâu nặng, cũng là lòng tự trọng đáng kính của ông lão. Cách nói chuyện của Lão hạc với ông Giáo cũng rất lễ phép và cung kính, có phần hơi quá mức: “Đã đành rằng thế, nhưng tôi bòn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó vợ con chưa có. Ngộ nó không lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao?… Tôi cắn rơm, cắn cỏ tôi lạy ông giáo! Ông giáo có nghĩ cái tình tôi già nua tuổi tác mà thương thì ông giáo cứ cho tôi gửi”. Rõ ràng, Lão Hạc đã bày tỏ thái độ kính trọng với người hiểu biết hơn mình, nhờ cậy giúp đỡ.
Lời kể của ông Giáo cũng giúp ta hiểu, lão Hạc không phải kiểu người đói ăn vụng, túng làm càn mà luôn giữ nếp sống trong sạch. “Luôn mấy hôm tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì rau má, với thỉnh thoảng một vài củ rảy hay bữa trai, bữa ốc”. Khi ông Giáo kể cho vợ nghe tình cảnh của lão Hạc thì bà gạt phắt đi “cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ! Lão làm khổ lão chứ ai làm lão khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Chính con mình cũng đói”. Cũng khó trách phản ứng của vợ ông Giáo bởi ai cũng thiếu thốn trăm bề, ông cũng chỉ đành ngậm ngùi “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thương”.
Đây là sự xót xa, chân thành của tác giả Nam Cao trước sự bất lực, trước số phận của người nông dân nghèo. Chủ đề này được bàn luận rất nhiều trong các tác phẩm của ông. Rằng con người chỉ thực sự là con người khi có được sự thấu hiểu, đầng cảm,, trân trọng, biết nâng niu những điều đáng thương, đáng quý ở người khác.
Cái chết của lão Hạc chứa đầy sự bi thảm nhưng cũng là biểu hiện của sự hi sinh, tình phụ tử. Vì nghĩ cho con, giữ tài sản cho con thoát khỏi cảnh đói khổ mà Lão phải chọn con đường bi kịch nhất. Cái chết lão Hạc chọn cũng là cái chết đầy đau đớn, lão muốn giải phóng bản thân khỏi cảnh túng quẫn và bế tắc. Đây là chi tiết đắt giá, phản ánh số phận cùng cực của người nông dân nghèo trong xã hội đầy áp bức bất công. Lão Hạc đã chuẩn bị con đường này ngay khi bán cậu Vàng bởi chính ông Giáo cũng nghe Binh Tư kể lại rằng lão Hạc xin bả chó. Khi nghe tin ấy, đến ông cũng phải ngạc nhiên vì tưởng nhầm lão Hạc muốn theo Binh Tư đến với con đườn làm ăn gian dối. “Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn.”
Đây là tình tiết được tác giả xây dựng nhằm đánh lạc hướng người đọc và gây bất ngờ. Mục tiêu để mọi người và ông Giáo mất đi ý nghĩ tốt đẹp về con người của lão Hạc, vì khi đến đường cùng, con người hoàn toàn có thể đánh mất đi thiện tính ban đầu mà dần tha hóa, buộc mình phải làm liều. Để ở thời điểm đó, ai cũng cho rằng một người giàu lòng tự trọng tấm lòng nhân hậu đến vậy mà nay cũng biến chất vì miếng ăn. Câu nói đầy mỉa mai của Binh Tư cho ta thấy góc nhìn của dân làng trước khi cái chết của Lão Hạc đến: “Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu.” Câu nói vu vơ nhưng đã đẩy tình huống truyện lên cao trào, nhất là ở câu văn “chứng kiến cái chết vật vã đau đớn vì ăn bả chó của lão Hạc; mọi nghi ngờ trong lòng ông giáo tan biến: Không! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác.”
Chưa hẳn đáng buồn vì lão Hạc vẫn còn trong sạch nhưng lại thật buồn vì một người lương thiện, nhân cách cao đẹp lại phải tìm đến cái chết vì cái nghèo, vì xã hội mục nát. Một ông lão đáng thương, đáng kính phải chịu cái chết đầy bi thảm, người đọc không hiểu nhưng có lẽ cũng dần nắm được tâm lý nhân vật, về lý do lão Hạc quyết định quyên sinh theo cách đau đớn nhất. Bởi ông cảm thấy tội lỗi, cả đời lão Hạc chưa lừa một ai nhưng lại dối bạn tâm giao của mình là cậu Vàng, một sinh mệnh vô tội. Lựa chọn này của ông là cách trừng phạt bản thân, ông cho rằng mình cũng mang tội và phải nhận cái chết như một con chó.
“Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư là hiểu.” Cái chết dữ dội, ám ảnh nhưng cũng chứa đựng sự thương cảm của tác giả cho nhân vật của mình, trong đó cũng là hình ảnh ấn tượng mạnh mẽ, khó quên với người đọc.
Nhà văn Nam Cao thành công xây dựng nhân vật để bạn đọc hiểu được nỗi khổ tâm, bất hạnh vì cái đói nghèo nhưng đối lập là nhân cách, tâm hồn lương thiện của người nông dân. Từ cách viết, cách kể, nhà văn cho thấy thái độ xót thương vô hạn của ông với những hoàn cảnh éo le do chính xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám đã tạo ra.
Mẫu 2: Phân tích Lão Hạc
Nam Cao là tác giả truyện ngắn xuất sắc chuyên viết về hiện thực giai đoạn trước cách mạng. Các tác phẩm của ông thường gắn liền với hình ảnh người nông dân đói khổ và từ đó ông xây dựng tình tiết truyện nâng cao phẩm chất tốt đẹp của họ, để họ tỏa sáng. Lão Hạc là một trong những tác phẩm như vậy, bởi dù đói nghèo, bất hạnh nhưng phẩm chất đáng quý của lão vẫn còn nguyên vẹn và đáng trân trọng.
Toàn bộ câu chuyện được kể với ngôi thứ nhất qua lời văn của ông Giáo – người hàng xóm thân thiết của lão Hạc. Cách kể gần gũi giúp câu chuyện trở nên sinh động và chân thực, cũng giúp ta cảm nhận được đánh giá của người kể về nhân vật chính. Qua lời văn của ông Giáo, ta hiểu được hoàn cảnh Lão Hạc thật đáng thương khi vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất lại bỏ đi vì không có tiền cưới vợ chưa thấy ngày về, chưa có tin tức. Có lẽ người bạn chân thành nhất đối với ông chính là cậu Vàng – thứ mà con trai ông để lại, để ông tâm sự, để ông trò chuyện mỗi ngày. Có thể nói, cậu Vàng như người bạn tri kỉ với lão. Nhưng cảnh đói kém ập đến, phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí khi lão Hạc ốm nặng phải dùng gần như cạn số tiền tích cóp bấy lâu. Nhưng mảnh vườn là tài sản cuối cùng của Lão, Lão cũng không muốn bán mà để dành cho con trai trở về. Để rồi lão phải ra quyết định bán Cậu Vàng (dù trước đó đã nhiều lần định bán nhưng rồi lại thôi). Quyết định này của lão dựa trên tâm lý không muốn phạm vào tiền của con trai, vì nếu nuôi thêm chó, lão sẽ phải phạm thêm vào số tiền ấy.
Cảnh bán cậu Vàng được tác giả mô tả thật xót xa, chính lão thừa nhận “cả đời chưa lừa một ai” vậy mà bây giờ phải lừa một con chó để rồi phải dằn vặt mỗi ngày. Ông Giáo kể lại “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước… Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…” Ông Giáo thấu hiểu nỗi đau của lão Hạc, có lẽ vì vậy mà ông tìm đến người hàng xóm để giãi bày nỗi lòng. Đồng thời, ông Giáo cũng là người mà lão rất tin tưởng, gửi gắm trông coi mảnh vườn của con trai, rồi lại nhờ gửi tiền để lo ma chay nếu chẳng may mình qua đời, nhưng thực tế, lúc đó lão đã có quyết định cho số phận của mình. Dường như mọi thứ đã được Lão sắp xếp ổn thỏa, để con trai không phải sống cảnh túng thiếu khi trở về, cũng để chính ông nếu chết cũng không phiền hà xóm giềng quyên góp ma chay, đây là lòng tự trọng cuối cùng của một người cha già, một người nông dân nghèo không muốn ảnh hưởng đến ai. Tất cả lời gửi gắm này chính là dự báo cho hành động kinh hoàng sắp tới.
Ông Giáo chứng kiến cảnh sống và sinh hoạt của lão sau ngày bán cậu Vàng mà phải xót thương. “Lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc.” Dù vẫn còn tiền, nhưng chính lão lại không muốn ảnh hưởng đến tiền của con trai là sự hi sinh thầm lặng của người làm cha.
Nhưng dù bế tắc và có cuộc đời bi thảm, lão vẫn đói cho sạch, rách cho thơm, sống một cuộc đời trong sạch thay vì tha hóa vì miếng cơm, vì đồng tiền. Lão sang nhà Binh Tư xin bả chó và nói dối là để hại con chó hàng xóm cứ đến vườn lão phá. Ông Giáo khi nghe tin này đã rất sốc và đau lòng bởi ông cho rằng con người lương thiện ấy cũng đã thay đổi vì miếng cơm. Không chỉ riêng người kể, chính những người trong làng nghe tin cũng không khỏi bất ngờ vì một người từng yêu chó như sinh mạng nay phải bán chó rồi lại định lấy bả đặt bẫy một con chó khác, ai cũng nghĩ rằng lão “rồi sẽ sa chân vào con đường tội lỗi”. Đây là tình tiết được Nam Cao đan cài tạo nên sự bất ngờ cho những nhân vật trong truyện và cũng là người đọc, bởi sự tha hóa khi hoàn cảnh éo le là có thể xảy ra. Nhưng khi chứng kiến cái chết của Lão Hạc, suy nghĩ của mọi người đảo lộn “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên… Cái chết thật là dữ dội.”. Chứng kiến cái chết ấy, mọi hiểu lầm của ông Giáo, Binh Tư hay bà con lối xóm được hóa giải và có lẽ chỉ 2 người mới hiểu lý do ông lão chọn cái chết bi thảm, đau đớn đến vậy. Đứng trước cái nghèo khó, lại không muốn dùng đến tiền của con, Lão Hạc buộc lòng chọn cái chết, nhưng ông cho rằng mình mang tội khi lừa dối cậu Vàng. Vậy nên lão chọn quyên sinh theo cách đau đớn tột cùng, khiến ai cũng phải bất ngờ và cũng thật ám ảnh.
Truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao đã cho chúng ta hình dung cuộc sống bế tắc của người nông dân thời kỳ ấy có thể dẫn đến kết cục đau thương ra sao. Dù vậy, họ vẫn giữ cho mình tâm hồn trong sạch, không bị tha hóa biến chất. Đồng thời, toàn câu chuyện là lời nhắc nhở mỗi người cần biết quan tâm và giúp đỡ những số phận éo le để không dẫn đến kết cục tương tự.
Mẫu 3: Phân tích Lão Hạc
Nam Cao là một trong những cây bút hiện thực xuất sắc nhất của văn học Việt Nam giai đoạn trước cách mạng. Các tác phẩm của ông luôn dựa trên hai đề tài lớn là người trí thức và người nông dân. Tuy nhiên, thành công hơn cả là khi ông viết về đề tài người nông dân, nhà văn phát hiện được vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất cao quý ẩn sâu trong con người họ. Truyện ngắn Lão Hạc là một trong số những tác phẩm như vậy.
Trước hết về nhân vật lão Hạc, lão là một nông dân có số phận bi thảm nhưng ẩn sau đó là những phẩm chất cao đẹp, đại diện cho người nông dân. Số phận lão Hạc cũng là số phận chung của biết bao người nông dân thấp bé giai đoạn trước cách mạng. Vợ lão chết sớm, lão ở vậy một mình nuôi con. Những khi đứa con lớn lên vì không lấy được người mình yêu nên phẫn chí bỏ nhà đi đồn điền cao su. Từ đó, lão ở vậy một mình với cậu Vàng – là con chó kỷ vật người con trai để lại. Nhưng cuộc đời lão càng ngày lại càng bi thảm hơn. Lão bị ốm nặng nên đã tiêu tốn nhiều tiền dành dụm cho con. Bởi không muốn tiếp tục động vào số tiền ấy nên lão đành bán con chó Vàng – người bạn đã ở bên giúp lão vơi bớt nỗi buồn khi phải xa con. Khi bán cậu Vàng lão dằn vặt và ân hận vô cùng. Nỗi day dứt đó được thể hiện qua hành động miêu tả đặc sắc: cười như mếu, đôi mắt ầng ậng nước, mặt đột nhiên co rúm lại, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít, hu hu khóc. Tình cảnh của lão thật đáng thương, lão luôn sống trong sự day dứt và trách tội bản thân.
Qua đó ta có thể thấy những phẩm chất cao đẹp của lão Hạc, lão là đại diện người nông dân lương thiện. Lão là một người giàu tình yêu thương, tình yêu thương đó không chỉ được thể hiện đối với con cái mà còn đối với cả với con vật: Lão gọi con chó là cậu Vàng, gọi nịnh như gọi một đứa trẻ. Lão chăm sóc cậu Vàng chu đáo khi cho ăn cơm trong chiếc bát lành lặn. Không chỉ vậy, lão còn thường xuyên trò chuyện, mắng yêu cậu Vàng. Nhờ vậy, lão cảm thấy bớt cô đơn và vơi đi nỗi nhớ con.
Không chỉ vậy, tình phụ tử yêu thương con của lão Hạc cũng vô cùng sâu sắc và thiêng liêng. Vì cảnh nghèo không cưới được vợ cho con, khiến lão vô cùng đau đớn. Do đó, lão luôn dành dụm tất cả số tiền làm cho con. Lão chấp nhận chịu khổ, mặc để người đời chửi mắng chứ nhất định không tiêu xài vào tiền của con. Sau khi lâm bệnh nặng, lão chỉ ăn khoai, hết khoai lão ăn củ chuối, rồi ăn sung luộc, rau má, củ ráy, vớ được thứ gì lão ăn thứ ấy. Và cuối cùng, lão lo lắng mình sẽ tiêu hết tiền cho con nên lão đành chọn cái chết để bảo toàn tài sản cho con trai mình. Cái chết đau đớn của lão Hạc như một cách giải thoát khỏi số phận bi thương mà lão đang phải chịu. Cái chết ấy còn xuất phát từ lòng thương con to lớn.
Mặc dù nghèo khổ nhưng lão luôn giữ tấm lòng trong sạch và lòng tự trọng đáng kính. Lão không muốn nhận bất cứ sự giúp đỡ của ai vì sợ làm phiền tới hàng xóm. Ngay cả khi ông giáo – người bạn thân thiết đề nghị giúp, lão từ chối, bởi lão hiểu hoàn cảnh gia đình ông giáo cũng nghèo túng chẳng khác gì mình. Lòng tự trọng đó còn được thể hiện qua việc lão để lại tiền nhờ ông giáo lo ma chay, vì không muốn phiền hà đến hàng xóm. Lão chết bằng cách ăn bả chó, một cái chết dữ dội và đầy đau đớn. Lão chọn cái chết để tâm hồn được trong sạch, và như một lời tạ tội sâu sắc với cậu Vàng. Cái chết của lão Hạc chính là sự khẳng định cho sức sống bất diệt của nhân cách trong ông.
Ngoài nhân vật lão Hạc trong tác phẩm ta còn thấy nổi bật lên hình ảnh của một ông giáo nghèo, người bạn thân thiết của lão Hạc và là người kể chuyện. Ông giáo có sự đồng cảm với cảnh ngộ đáng thương của lão Hạc khi thường xuyên đến an ủi, động viên và chia sẻ nỗi buồn với lão Hạc. Không chỉ vậy, ông luôn tìm mọi cách làm cho lão khuây khỏa. Ông còn là người am hiểu tường tận vẻ đẹp nhân cách và tâm hồn của lão Hạc: “Không cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Nghĩa khác ấy có thể hiểu rằng con người có nhân cách cao đẹp nhưng lại phải chết vật vã và cái chết ấy lại càng làm sáng hơn nhân cách cao đẹp của lão.
Tác giả sử dụng nghệ thuật kể chuyện xuất sắc khi câu chuyện được kể bởi nhân vật tôi (ông giáo) người luôn bên cạnh lão Hạc. Bởi vậy khiến câu chuyện trở nên chân thực, gần gũi, ngoài ra khiến mạch kể trở nên tự nhiên, linh hoạt, tạo điều kiện kết hợp tả, kể với bình luận một cách tự nhiên, sinh động. Giọng văn đa dạng và được thay đổi linh hoạt trong từng tình huống truyện. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện bất ngờ với những bước ngoặt giúp bộc lộ rõ tính cách, phẩm chất cao quý của nhân vật chính. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là một điểm nhấn của văn bản khi Nam Cao khắc họa hình tượng nhân vật qua diện mạo, ngôn ngữ đối thoại, diễn biến tâm trạng và qua lời nhận xét, bình luận của các nhân vật khá. Nhờ đó, chân dung nhân vật hiện lên chân thực và sinh động hơn.
Với các kể chuyện đặc sắc kết hợp ngôn ngữ giản dị, tình huống truyện chứa đựng nhiều bất ngờ, Nam Cao đã vẽ nên chân dụng số phận bất hạnh của người nông dân trước cách mạng. Họ không có tiếng nói, luôn bị đẩy đến đường cùng và cuối cùng phải tìm đến cái chết để giải thoát nếu không muốn bị tha hóa hoặc ảnh hưởng đến người khác. Ẩn sau trong đó là tinh thần đáng quý, sự lương thiện và lòng tự trong cao cả đối lập hoàn toàn với số phận hẩm hiu mà họ phải đối diện.
Mẫu 4: Phân tích Lão Hạc
Nhà văn Nam Cao là một trong những cây bút tiêu biểu cho dòng văn học hiện thực những năm đầu thế kỷ XX. Tác phẩm của ông thường viết về người nông dân có số phận nghèo khổ nhưng lại có tấm lòng thanh cao. Một trong những tác phẩm tiêu biểu là truyện ngắn Lão Hạc.
Lão Hạc là một người nông dân bất hạnh khi vợ mất sớm, người con trai duy nhất “bỏ đi bằn bặt”. Gia tài của lão chỉ vọn vẹn có ba sào vườn và con chó Vàng bầu bạn. Sau trận ốm nặng lại gặp bão lớn, lão không còn đủ sức để đi làm thuê nên lão đành phải bán cậu Vàng. Dù không muốn nhưng chỉ có bán con chó thì lão mới có thể giữ lại mảnh vườn cho con trai. Sau đó, lão đến xin Binh Tư ít bả chó. Việc này khiến ông giáo hiểu lầm lão đã bị cái nghèo đói tha hóa làm chuyện xấu. Cho đến khi ông chứng kiến “lão Hạc đang vật vã ở trên giường, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái” mới khiến ông giáo hiểu lão Hạc đã phải trải qua những gì. Lão Hạc chọn cho mình một cái chết đau đớn như để chứng minh tâm hồn mình trong sạch và cũng để đền đáp vì đã bán đi con chó Vàng tội nghiệp. Lòng tự trọng của lão trở nên rực rỡ nhất ngay cả khi thân xác của lão đang kiệt quệ và đau đớn.
Hình tượng lão Hạc được nhà văn Nam Cao xây dựng với những phẩm chất tốt đẹp. Tuy là một người nông dân nghèo khổ nhưng lão thật thà và hiền lành. Lão yêu thương người con trai vô bờ. Vì thương con, lão chấp nhận sống một mình và thậm chí sẵn sàng đánh đổi mạng sống để con được sung túc hơn. Lão day dứt khôn nguôi khi phải bán cậu Vàng – kỷ vật con trai để lại. “Mặt lão tự nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít”. Cậu Vàng đối với lão Hạc như tri kỷ, là chỗ dựa tinh thần của lão. Ấy vậy mà, vì cái nghèo, cái đói đeo bám mà lão đành phải bán đi người bạn thân thiết này. Sự dằn vặt và hy sinh vì người thân yêu cho ta thấy vẻ đẹp trong nhân cách của lão Hạc.
Tác giả Nam Cao đã rất tài tình khi sử dụng nghệ thuật kể chuyện theo ngôi thứ nhất, theo lời kể của ông giáo. Cùng với đó là sử dụng từ ngữ giao tiếp gần gũi giúp câu chuyện trở nên chân thực và đến gần hơn với người đọc. Không chỉ vậy, với giọng văn đa dạng và những tình huống bất ngờ cũng làm nổi bật lên phẩm giá cao quý của nhân vật chính. Ngoài ra, tác còn biết cách khắc họa nhân vật qua từng cử chỉ, diện mạo và diễn biến tâm lý trong từng tình huống khác nhau giúp cho nhân vật trở nên sinh động hơn. Từ những yếu tố nghệ thuật trên, nhà văn đã thành công khi khắc họa một câu chuyện mang lại dấu ấn khó quên trong lòng độc giả.
Trong xã hội ngày nay, con người dễ trở nên tha hóa khi lâm vào cảnh đường cùng. Nhưng lão Hạc không làm vậy, dù trong cảnh túng quẫn và tối tăm, ông hiện lên là một người có phẩm chất tốt đẹp. Có thể thấy rằng, lão Hạc càng gặp khó khăn, càng cho thấy ông là một lão nông thanh cao và trong sạch. Lão Hạc trong những câu văn của Nam Cao là đại diện cho hình tượng người nông dân Việt Nam kiên cường và tốt bụng. Tác giả sử dụng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật đối lập giữa cái nghèo và phẩm chất cao quý khiến người đọc dễ dàng đồng cảm với nhân vật.
Có thể nói rằng, nhà văn Nam Cao đã thành công khi khắc họa chân thực hình tượng chân chất của người nông dân Việt Nam trong giai đoạn trước cách mạng. Qua đó, thể hiện tấm lòng cảm thương của tác giả dành cho tầng lớp thấp bé nhất trong xã hội.
Mẫu 5: Phân tích Lão Hạc
Lão Hạc là một trong những truyện ngắn phê phán hiện thực xã hội hay nhất của Nam Cao. Tác giả đã khai thác sâu sắc nỗi khổ của người nông dân rồi từ đó, hiểu rõ bản chất cao đẹp trong tâm hồn của họ, nhân vật Lão Hạc trong truyện chính là một người như vậy.
Lão Hạc lại là người biết nhìn xuyên qua cái vỏ vật chất những giá trị tinh thần nặng trĩu: “Trước khi đi nó còn cho tôi 3 đồng bạc, ông Giáo ạ! Chả biết nó gửi thẻ xong vay trước được mấy đồng mà đưa về cho tôi 3 đồng. Nó đưa cho tôi 3 đồng và bảo: Con biếu thầy 3 đồng để thỉnh thoảng thầy ăn quà”… trong câu nói lặp đi lặp lại bốn lần cụm từ 3 đồng. Ba đồng bạc nhẹ tênh trong lòng bàn tay run rẩy của lão Hạc nhưng đè nặng lên trái tim già nua của ông một niềm đau đớn tủi hổ: 3 đồng bạc bán mình của con, lẽ nào ông lại ăn tiêu trên sinh mạng của nó?
Với con chó Vàng bị bán: “Thì ra tôi già bằng tuổi đầu này rồi mà còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó”. Chao ôi, phải chăng cuộc đời này, ta thường xuyên có những niềm ăn năn như vay?
Nhưng lạ lùng hơn hết, là Lão Hạc luôn luôn tự xóa mình, lão xóa mình đi trong tương quan chồng vợ, cha con: mảnh vườn thì do vợ tậu, con chó thì của con mua. Lão không cho mình sở hữu một cái gì cả, và sự xóa mình có ý thức ấy là một đặc điểm quan trọng nhất quan trong tính cách của lão Hạc để dẫn đến sự lựa chọn cuối cùng của đời lão. Một đức hi sinh lớn lao trong từng nếp nghĩ đã thành lẽ sống ở đời. Nó còn hơn cả lòng tự trọng và sĩ khí. Nó là sự quên mình cho một cái gì khác.
Vậy, cái gì khác là gì mà Nam Cao muốn gửi gắm trong bộ truyện đầy bi kịch này? Phải chăng là đứa con trai bất hạnh, núm ruột duy nhất của lão để biền biể ở phương trời xa lạ? Đúng thế, bởi ta đọc thấy trong truyện một đứa con ngoan không hề đòi hỏi và tình cảm của một người cha kín đáo, mà sâu sắc, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến việc gầy dựng cho con, nhẩm tính từng đồng xu, nhịn ăn và cuối cùng chọn cái chết, cũng để giữ lại cho con một di sản trọn vẹn.
Nhưng ta còn thấy lão Hạc luôn canh cánh một nỗi lo về mảnh vườn: “Ai lại bán vườn đi mà lấy vợ”. “Ngộ nó không lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao?”, “Nếu không có người trông nom cho thì khó giữ được vườn đất để làm ăn ở làng này”. Và lão suy sụp hẳn sau cái chết của con chó Vàng. Kể từ giây phút ấy, ông lão đã chọn sẵn cho mình một lối thoát. Thế thì mảnh vườn và con chó không chỉ thuần túy là những giá trị vật chất. Chúng đóng vai trò to lớn trong cuộc đời lão Hạc, bởi chúng gắn liền với trái tim cô đơn của lão. Nhưng còn vì chúng là di vật của người vợ đã khuất và đứa con xa. Đặc biệt từ trong vô thức của lão, mảnh vườn đã trở thành một biểu tượng thiên liêng: là biểu tượng của sự ủy thác, là dấu vết của cội nguồn, là hi vọng về sự kế thừa tốt đẹp ở tương lai.
Thế thì lẽ nào phản bội sự ủy thác, lẽ nào dứt bỏ cội nguồn, lẽ nào tự xóa đi niềm hi vọng? Lão Hạc đã chọn trung thành với tính cách của mình, như chúng ta đã thấy. Lão Hạc đã xóa mình ra khỏi mảnh vườn để nó được tồn tại mà trao truyền trọn vẹn: lão xóa mình khỏi đời sống của đứa con để cho nó niềm hi vọng gắn bó với cội nguồn, lão xóa mình ra khỏi cõi thế phiền trược này để giữ gìn lẽ sống của mình.
Lão Hạc là bộ truyện mang nhiều ý nghĩa, đồng thời, thể hiện sự thương cảm của Nam Cao đối với nhân vật của mình. Sự lựa chọn cuối cùng của lão là bi kịch nhưng cũng là lời cảnh tỉnh với mỗi chúng ta về sự quan tâm đến người khác, là sự thấu hiểu và trân trọng tâm hồn cao đẹp của lão.
Dàn ý và các bài phân tích Lão Hạc này sẽ giúp học sinh nắm vững nội dung tác phẩm. Từ đó các em có thể viết bài phân tích hoàn chỉnh và đạt điểm cao.