Tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm không chỉ phản ánh chân thực thảm cảnh của người nông dân trong nạn đói năm 1945 mà còn thể hiện sức sống mãnh liệt và tình người cao đẹp của họ ngay trên bờ vực cái chết.
Nội dung Vợ nhặt
Tràng là một người đàn ông nghèo khổ, cơ cực ở xóm ngụ cư. Một ngày kia, trong buổi chiều, trong không khí thê thảm, ảm đạm vì đói, Tràng dẫn về một người phụ nữ.
Đó là vợ anh – người vợ nhặt. Tràng đã bắt gặp vợ tương lai của mình đang cảnh đói rách, mời ăn bốn bát bánh đúc kèm theo lời nói đùa vui.
Bà mẹ già của Tràng đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu trong mối đau đớn và thương cảm. Tràng cảm thấy con người mình đổi khác.
Từ chút đùa đến thoáng lo, bây giờ Tràng thấy niềm vui thành người có trách nhiệm. Đêm đầu tiên của đôi vợ chồng qua đi trong không khí khét lẹt mùi chết chóc và tiếng khóc ai oán.
Bà mẹ nghèo đãi hai con ít cháo và nồi chè đặc biệt. Miếng cám chát bứ, nghẹn cổ nhưng Tràng vẫn cùng vợ hướng về một cuộc sống đổi khác.
Thông tin tác giả Vợ nhặt
Tác giả của tác phẩm Vợ nhặt là Kim Lân (1920-2007), ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo khó ở Bắc Ninh.
- Tên khai sinh: Nguyễn Văn Tài
- Quê quán: Tân Hồng – Từ Sơn – Bắc Ninh
- Hoàn cảnh gia đình: Khó khăn, chỉ học hết tiểu học
- Nghề nghiệp: Thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong, nhà văn
- Năm 1944: Tham gia Hội văn hóa cứu quốc
- Hoạt động: Viết văn, làm báo, diễn kịch, đóng phim phục vụ kháng chiến
- Đặc điểm sáng tác: Tập trung vào đề tài nông dân và nông thông Bắc Bộ
- Năm 2001: Được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật
Thông tin tác phẩm Vợ nhặt
Tác phẩm Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn tiêu biểu nhất của Kim Lân, phản ánh đậm nét cuộc sống người nông dân trong nạn đói.
Thể loại
Truyện ngắn
Xuất xứ/Hoàn cảnh ra đời
Truyện ngắn Vợ nhặt viết về nạn đói năm Ất Dậu (1945). Tiền thân của truyện này là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” mà Kim Lân viết ngay sau Cách mạng tháng Tám.
Tuy nhiên, bản thảo tiểu thuyết còn dang dở và bị thất lạc. Sau đó, tác giả đã dựa vào cốt truyện của tiểu thuyết này để viết truyện ngắn Vợ nhặt.
Phương thức biểu đạt
Phương thức biểu đạt của tác phẩm Vợ nhặt là tự sự với người kể chuyện ngôi thứ ba.
Bố cục
Tác phẩm Vợ nhặt gồm 4 phần chính:
- Phần 1: Kể lại việc anh Tràng dẫn “vợ nhặt” về xóm ngụ cư
- Phần 2: Câu chuyện hai người gặp nhau và trở thành vợ chồng
- Phần 3: Tràng giới thiệu người vợ nhặt với mẹ mình
- Phần 4: Những thay đổi tích cực của gia đình vào buổi sáng hôm sau
Giá trị nội dung
Truyện ngắn Vợ nhặt không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Tác phẩm còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ.
Ngay trên bờ vực của chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu, đùm bọc lẫn nhau.
Giá trị nghệ thuật
Xây dựng tình huống truyện độc đáo, tự nhiên, kết hợp nhuần nhuyễn hai yếu tố hiện thực và nhân đạo. Bút pháp phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc.
Nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm làm nổi rõ tâm lí của từng nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện phong phú, cách kể chuyện gần gũi, tự nhiên với kết cấu truyện đặc sắc.
Phân tích nội dung Vợ nhặt
Tác phẩm Vợ nhặt được phân tích qua nhiều góc độ khác nhau, từ ý nghĩa nhan đề, tình huống truyện cho đến các nhân vật chính.
Ý nghĩa nhan đề
Nhan đề Vợ nhặt thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng tác phẩm. “Nhặt” đi với những thứ không ra gì, thân phận con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác.
“Vợ” lại là sự trân trọng, có vị trí trung tâm xây dựng tổ ấm. Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng “nhặt” vợ – thể hiện sự khốn cùng của hoàn cảnh.
Tình huống truyện
Tình huống truyện trong Vợ nhặt là anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy được vợ. Điều này xảy ra ngay giữa lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh.
Tình huống lạ, độc đáo này không chỉ tạo ra hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu chuyện mà còn gợi mở các khía cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo.
Nhân vật Tràng
Tràng là dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, kiếm sống bằng nghề đánh xe bò nuôi mẹ già. Ngoại hình thô kệch với dáng người vập vạp, thân hình to lớn như lưng gấu.
Tính cách thô mộc, ngộ nghệch nhưng gần gũi, thân thiết với dân làng và trẻ nhỏ. Anh là người đôn hậu, vui vẻ, tốt bụng, thường nói cộc lốc, ngắn gọn.
Từ khi nhặt được vợ, Tràng có sự biến đổi tích cực. Anh trở nên có trách nhiệm, nghiêm túc hơn và nhận thức được vai trò của mình trong gia đình.
Nhân vật thị – người vợ nhặt
Thị là nạn nhân của nạn đói với số phận bi thảm, không có quê hương gia đình, tên tuổi cũng không rõ ràng. Ngoại hình không mấy dễ nhìn với quần áo tả tơi, gầy sọp, khuôn mặt xám xịt.
Tuy nhiên, thị vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp: có khát vọng sống mãnh liệt, là người ý tứ và nết na, có niềm tin vào tương lai. Thị thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm.
Nhân vật bà cụ Tứ
Bà cụ Tứ là một bà mẹ nghèo khổ, góa bụa, già nua – ốm yếu, cũng là dân ngụ cư. Bà sống với anh con trai – chỉ là một anh phụ xe nghèo.
Diễn biến tâm trạng của bà từ ngạc nhiên, thương cảm đến mừng vì con trai đã yên bề gia thất. Bà cụ Tứ là người mẹ nghèo hiền từ, chất phác, vị tha, nhân hậu.
Tác phẩm Vợ nhặt khẳng định sức mạnh của tình người và lòng nhân ái trong hoàn cảnh khốn cùng nhất. Đây là bài học quý giá về lòng yêu thương và khát vọng sống của con người.