Bài thơ phân tích Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử là một trong những tác phẩm tiêu biểu thể hiện tài năng quan sát tinh tế của nhà thơ về thiên nhiên và con người. Tác phẩm được sáng tác trước năm 1973, mang đến cho độc giả những cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp của mùa xuân ở miền quê Việt Nam.
Dàn ý phân tích Mùa xuân chín
Dưới đây là dàn ý phân tích Mùa xuân chín chi tiết để tham khảo, được biên soạn bởi đội ngũ giáo viên giỏi, có nhiều kinh nghiệm giảng dạy văn học.
Mở bài
Tác phẩm “Mùa xuân chín” được sáng tác trước năm 1973, đã góp phần làm nên tên tuổi của Hàn Mặc Tử. Bài thơ thể hiện cái nhìn tinh tế của tác giả về mùa xuân, với những cảm quan sắc bén và tâm hồn thơ mộng.
Thân bài
Cảnh vật làng quê trong mùa xuân chín tràn đầy sức sống: Những hình ảnh làn nắng, mái nhà tranh, gió “sột soạt” trêu tà áo biếc, giàn thiên lí tạo nên bóng xuân sang trọng và thơ mộng.
Mùa xuân chín đến gần hơn bao giờ hết trong cả không gian và tâm hồn: Sóng cỏ bất tận tới trời thể hiện cách sử dụng từ tài tình của tác giả. Mùa xuân không chỉ hiện diện trong thiên nhiên mà còn ngập tràn trong tâm hồn con người qua hình ảnh cô thôn nữ đang hát và hạnh phúc đôi lứa.
Niềm hân hoan chào đón xuân chín của con người: Tiếng hát từ cao vút đến như thì thầm thơ ngây, làm lòng người xao xuyến. Âm thanh này thể hiện sự phấn khích, vui mừng của con người trước vẻ đẹp của mùa xuân.
Vị khách xa cảm nhận và ca ngợi mùa xuân chín: Những con người lao động được tôn vinh trong sắc trời mùa xuân. Góc nhìn của người xa xứ làm tăng thêm giá trị thẩm mỹ cho tác phẩm.
Kết bài
Tác phẩm “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử là một tác phẩm thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận của tác giả về thiên nhiên và con người. Mùa xuân chín mà Hàn Mặc Tử mang tới cho người đọc là mùa xuân đang ở độ đẹp nhất với đầy đủ các sắc thái khác nhau, từ cảnh vật đến tâm hồn con người.
Mẫu 1: Phân tích Mùa xuân chín
Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn từng nhận định: “Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng thơ cất lên từ sự hủy diệt để hướng về sự sống”. Quả đúng là tương tự đọc thơ Hàn Mặc Tử ta luôn thấy một tấm lòng khát khao yêu đời, khát khao sống. Một trong số đó là bài thơ “Mùa xuân chín”. Bài thơ được rút trong tập “Đau thương” (1938) – được coi là “tiếng thơ thuộc loại trong trẻo nhất của Hàn Mặc Tử”, trong trẻo song cũng đầy bí ẩn, đau thương.
“Mùa xuân chín” gây ấn tượng với bạn đọc bởi chính nhan đề của nó. Bởi lẽ, đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta luôn thấy một sự u huyền, mơ mộng, kì bí, đượm buồn và đau thương với những hình ảnh đặc trưng là “máu”, “trăng” và “rượu”. Thế nhưng, “mùa xuân chín” lại mang đến một cảm giác hoàn toàn mới lạ, một ko gian tràn đầy sức sống của cảnh xuân và tình xuân. “Chín” vốn là tính từ để chỉ trạng thái của quả cây lúc đã đến giai đoạn thu hoạch, ngọt ngào, căng mọng và thơm mát. Với ý nghĩa đó, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một “mùa xuân chín” – một mùa xuân tràn đầy sức sống, viên mãn và tròn đầy. Mùa xuân đang ở độ tươi đẹp nhất, rạng rỡ nhất, căng tràn nhựa sống nhất.
Mạch thơ là dòng tâm tư bất định với những chuyển kênh bất chợt. Về thời gian, tác giả đang say đắm trong thời khắc hiện tại với cảnh xuân tươi đẹp phô bày trước mắt, bỗng sực nhớ về quá khứ xa căm với khung cảnh làng quê thân yêu. Về cảnh sắc, bức tranh xuân đang từ ngoại cảnh (mái nhà tranh, giàn thiên lí, sóng cỏ xanh tươi,…) thoắt biến thành tâm cảnh ( người con gái dánh thóc dọc bờ sông trắng). Về cảm xúc, Hàn Mặc Tử đã bày tỏ dòng tâm tư của bản thân với nhiều bước ngoặt: từ niềm say mê, rạo rực đến trạng thái bâng khuâng, xao xuyến rồi buồn thương da diết. Có thể thấy, mạch thơ ko đi theo một chiều mà luôn vận động vô cùng linh hoạt, phong phú. Đó chính là phong cách thơ độc đáo của chàng thi sĩ họ Hàn.
Mở đầu bài thơ là bức tranh tự nhiên tươi mới, ngập tràn ánh sáng, ngập tràn sắc xuân:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng Sột soạt gió trêu tà áo biếc Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”.
Tự nhiên mùa xuân hiện ra ngập tràn sắc vàng của nắng hoà trong làn sương khói mờ ảo, huyền bí. Cách kết hợp từ “khói mơ tan” khiến ta hình dung những làn khói sương như đang hoà tan trong nắng tạo nên một khung cảnh đẹp như mơ. Sắc vàng của nắng càng trở nên rực rỡ với hình ảnh “đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Trong khung cảnh thanh bình, yên ả ấy bỗng nhà thơ bắt gặp tiếng “sột soạt” của “gió trêu tà áo biếc”. Biện pháp đảo ngữ và nhân hoá đã được nhà thơ sử dụng thật tài tình. “Sột soạt” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh của động của cảnh vật. Gió như đang trêu đùa cùng tà áo biếc đón xuân sang, khiến ko lúć mùa xuân trở nên sôi động, vui tươi, đầy hứng khởi. Từ mái nhà tranh, nhà thơ di chuyển điểm nhìn đến “giàn thiên lí”. Dấu chấm đặt giữa câu thơ như một sự ngập ngừng, ngắt quãng. Bởi đó là khoảnh khắc thi nhân giật mình nhận ra “bóng xuân sang”. Mùa xuân được hữu hình hoá, có thể quan sát bằng thị giác. Bóng của mùa xuân nhẹ nhàng bước tới như thể đang đứng trước mặt nhà thơ, khiến con người ngỡ ngàng mà chiêm ngưỡng cái sắc xuân tươi đẹp ấy.
Từ điểm nhìn cận cảnh, Hàn Mạc Tử đưa tầm mắt ra xa với cái nhìn viễn cảnh. Ko gian mùa xuân được rộng mở với “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. “Sóng” được kết hợp với thảm có xanh mướt khiến bạn đọc hình dung từng lớp cỏ như nối tiếp nhau, trải dài bất tận, sức sống dường như đang căng tràn một cách mãnh liệt. Ý thơ làm ta nhớ đến một câu thơ trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Cùng diễn tả một ko gian mùa xuân với thảm cỏ xanh mướt trải dài bất tận nhưng cái độc đáo của Hàn Mặc Tử là cách nói “sóng cỏ” gợi ra một sự uyển chuyển, nhẹ nhàng mà mượt mà của những lớp cỏ xuân. Phải chăng sức sống cuộn trào từ bên trong, tạo thành những đợt sóng và kết lại tạo nên một “mùa xuân chín”!
Từ cảnh thu, Hàn Mạc Tử bỗng chuyển sang tình thu, bức tranh ngoại cảnh trở về với bức tranh tâm cảnh. Phải chăng, nhà thơ dùng cảnh mở đầu là để nói tình, tả tình? Một cái tình nồng hậu, thiết tha với con người và cuộc đời. Hoà cùng với ko lúć tươi vui của mùa xuân, ta thấy được cái náo nức trong lòng người:
“Bao cô thôn nữ hát trên đồi Ngày mai trong đám xuân xanh ấy Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”
“Xuân xanh” là một ẩn dụ để chỉ những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Tuổi xuân của họ tươi đẹp, rực rỡ như mùa xuân của đất trời. Chính vì vậy, niềm vui của những cô thôn nữ hoà trong ko lúć mùa xuân chính là tình xuân. Cái ửng của nắng phải chăng chính là đôi má ửng hồng của các cô gái lúc “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Niềm vui của họ là tình yêu đôi lứa, là sự gắn kết trong hôn nhân đến bạc đầu. “Mùa xuân chín” ko chỉ là tiết trời xuân mà còn là tình xuân. Cái “chín” trong tình yêu chính là kết quả nên vợ nên chồng. Niềm hạnh phúc của những cô gái được thể hiện trong “tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi”. Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật tài tình. “Tiếng ca” vốn được cảm nhận bằng thính giác, nay được hữu hình hoà trong trạng thái “vắt vẻo”, cảm nhận bằng thị giác. Tiếng hát ca say sưa của con người như có sức hút, cao vút đến lưng chừng núi thể hiện niềm thiết tha yêu đời mãnh liệt. Dư vang của tiếng hát dường như còn ngập ngừng mà “vắt vẻo lưng chừng núi” tạo nên một âm thanh vang vọng khắp ko gian. Xuân tình từ tự nhiên lây lan, giao ứng với xuân tình trong lòng người, cả hai nhập vào nhau trong cùng một tiếng hát. Là tiếng hát của những cô thôn nữ mà cũng là tiếng hát của nước mây. Tự nhiên và con người đồng ca, đồng vọng hay tiếng hát trong lòng tự nhiên đang cất lên qua lời hát của con người.
Từ âm thanh cao vút, hổn hển như lời của nước mây bỗng trở thành những lời thầm thì nhỏ bé:
“Thầm thì với người nào ngồi dưới trúc Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Câu thơ phảng phất tính tượng trưng, siêu thực trong thơ Hàn Mạc Tử. Đại từ “người nào” xuất hiện như “bóng người nào đậu bến sông trăng đó” (Đây thôn Vĩ Dạ) đầy bí ẩn. “Tiếng ca” vốn vang xa khắp núi rừng nay thu lại chỉ dành cho “người nào”. Đó có thể là người thương, cũng có thể là với chính bản thân mình. Để rồi, lúc tâm tình, sẻ chia, con người có thể lắng nghe được những “ý vị và thơ ngây” trong lòng mình. Tuy nhiên, câu thơ cũng mang theo nỗi buồn, niềm nuối tiếc của người thi sĩ trước “mùa xuân chín”. Bởi “xuân chín” rồi cũng là lúc “xuân tàn”, cái đẹp rồi cũng sẽ tàn phai. “Đám xuân xanh ấy” rồi cũng “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tuổi xuân tươi đẹp của người thiếu nữ rồi cũng có điểm kết. Ta thấy dâng lên trong lòng nhà thơ một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, muốn níu giữ cái hương sắc tươi đẹp của cuộc đời. Để rồi, kết thúc bài thơ, Hàn Mặc Tử hoá thân trong một người “khách xa”, bày tỏ nỗi nhớ nhung của mình:
“Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng -Chị ấy, năm nay còn gánh thóc Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.
Trước “mùa xuân chín”, lòng “khách xa” bỗng trào dâng nỗi nhớ làng quê thân yêu. Nhớ làn nắng ửng, nhớ đôi mái nhà tranh, nhớ tà áo biếc và nhớ cả giàn thiên lý. Đó là một ko gian làng quê mộc mạc, giản dị, gần gũi mà chan chứa nghĩa tình. Và trong ko gian ấy, hình ảnh người chị gánh thóc trở thành trung tâm của nỗi nhớ. “Chị ấy” là một cách nói phiếm chỉ. Đó có thể là một người dân lao động bình thường nơi thôn quê của tác giả, cũng có thể là một người thân quen gần gũi, hoặc cũng có thể là cô người yêu của thi nhân. Thế nhưng, dù hiểu theo cách nào, ta cũng thấy một niềm yêu quý và trân trọng của tác giả đối với “chị”. Người con gái xuất hiện trong nét đẹp lao động với tư thế gánh thóc, hoà cùng ánh nắng vàng bên bờ sông trắng. Một khung cảnh hiện lên thật thơ mộng, lãng mạn biết bao! Ta có thể thấy ánh nắng xuân lúc này càng trở nên long lanh, lấp lánh hơn trong dòng hồi tưởng của người khách xa quê.
Như vậy, bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử có sự hài hoà của sắc xuân, tình xuân. Ko chỉ mùa xuân chín mà lòng người cũng “chín” với khát khao giao cảm với cuộc đời, “chín” với tình yêu và nỗi nhớ. Một nét đặc trưng tiêu biểu làm nên sự độc đáo của “Mùa xuân chín” cũng như ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử chính là sự kết hợp tài tình giữa cái cổ điển và cái hiện đại. Trước hết, ta bắt gặp thơ Hàn Mặc Tử có những điểm giao thoa với thể thơ Đường luật, tạo nên một nét thơ phảng phất phong vị cổ điển, trang trọng. “Mùa xuân chín” được sáng tác theo thể thơ bảy chữ, ngắt nhịp 4/3. Thất ngôn và ngắt nhịp 4/3 là đặc trưng tiêu biểu của thơ Đường luật. Ngoài ra, cách gieo vần cuối những câu thơ 1, 2, 4 cũng là một điểm giao thoa với thể thơ Đường luật. Đó là những yếu tố làm nên phong vị cổ điển trong thơ Hàn Mặc Tử. Về tính hiện đại, thi sĩ họ Hàn là người chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ tượng trưng siêu thực đó là tạo nên những hình ảnh huyền ảo, kì bí, thậm chí là ma mị bằng những kết hợp từ mới mẻ, độc đáo thông qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Có thể thấy ngòi bút của Hàn Mạc Tử đã đạt đến trình độ điêu luyện trong việc sáng tạo nên những kết hợp từ ngữ mới: mùa xuân chín, bóng xuân sang, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo, nghe ra ý vị và thơ ngây. Tất cả những gì trừu tượng, ko thể cảm nhận bằng mắt thường đã được nhà thơ hữu hình hoá một cách thật tài tình, độc đáo. Những nét thơ mới lạ tạo nên tính hiện đại rất riêng trong thơ Hàn Mặc Tử. Hoà cùng với dòng phát triển của Thơ mới trong thời bấy giờ, thơ Hàn Mặc Tử đã tạo ra một lối rẽ riêng – tinh tế, độc đáo và mới lạ.
Thơ Hàn Mặc Tử bộc lộ một thế giới nội tâm mãnh liệt với những cung bậc cảm xúc được đẩy đến tột cùng. Đọc “mùa xuân chín”, ta thấy Hàn Mặc Tử đã mượn bức tranh xuân tươi đẹp, rạo rực, tràn đầy sức sống để bày tỏ cái “xuân chín” trong lòng người. “Chín” trong tình thương, “chín” trong nỗi nhớ về con người, cuộc đời và quê hương. Nổi bật hơn hết là một tấm lòng khát khao giao cảm với cuộc đời, trân trọng cái đẹp và ý thức nâng niu, giữ gìn những gì tinh tuý, đẹp đẽ của cuộc đời. Khao khát ấy trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong những sáng tác của Hàn Mặc Tử, tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc, để tư tưởng trong những dòng thơ còn âm vang mãi cho đến hiện tại.
Mẫu 2: Phân tích Mùa xuân chín
Ko biết mùa xuân có tự bao giờ và thơ xuân có tự bao giờ, chỉ biết người ta sinh ra đã có mùa xuân đẹp đầy sức sống và thổi vào các hồn thơ, sống trong cuộc đời, nếu thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những câu thơ xuân thì thật buồn. Hôm qua, hôm nay và ngày mai mốt lại có những vần thơ xuân cho con người, cho cuộc sống. Và hôm qua đã có Hàn Mặc Tử với “Mùa xuân chín” lúc xúc cảm trong con người lữ khách đó đã tới độ tràn đầy.
Nói tới mùa xuân, có người nào ko hiểu đó là những phút rộn rực nhất của cuộc đời, của cuộc sống. Mùa xuân mỗi khoảnh khắc một vẻ, lúc là “mùa xuân nho nhỏ”, lúc là “mùa xuân xanh”… và đây “Mùa xuân chín” nghe vừa mới, vừa sôi nổi, vừa có một sức sống dồn nén đang thầm nảy nở giống như cái mới, cái lãng mạn và khát khao trong tâm hồn Hàn Mạc Tử.
Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi xuân, đều thấm đượm cái đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa xuân tính từ lúc cái nắng mới lạ thường:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng Sột soạt gió trêu tà áo biếc Trên giàn thiên lí bóng xuân sang”.
Đúng là nắng xuân, chẳng phải tia nắng, hạt nắng, chẳng phải giọt nắng nhưng là “làn nắng”. Chữ “làn” như gợi một hơi thở nhẹ nhõm, nắng như mỏng tanh, mềm mại trải đều trong thơ và trong ko gian. Làn nắng lại “ửng” lên trong “khói mơ tan”. Cảnh sắc nhẹ nhõm, đẹp dân dã nhưng huyền diệu. Sương khói quyện với nắng; cái “ửng” của nắng được tôn lên trong làn khói mơ mòng đang “tan” đó. Ngòi bút thi sĩ vẫn hướng tới một nét thơ truyền thống, cổ điển, cảnh như có hồn, như có tình tràn đầy. Trân trọng đón lấy cái nắng mới tinh khiết đó là “Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng’!. Sự hô ứng trong vần thơ tạo ra một xúc cảm ấm áp, cảnh vật tương hợp hài hòa, đầy thơ mộng. Vài nét chấm phá đơn sơ nhưng tinh tế gợi cảm, dung dị nhưng đáng yêu. Chỉ có “đôi mái nhà tranh” hiện lên trong “làn nắng ửng” nhưng vẫn gợi lên một sức sống đang lay động, dân dã bình yên rất thân thuộc với mọi người. Nắng như đang rắc lên “đôi mái nhà tranh” chút sắc xuân và hương xuân: “Sột soạt gió trêu tà áo biếc”. Cái âm thanh của gió “trêu” tà áo và cái gam màu “biếc” của, lá ây là cái tình xuân. Một chữ “trêu” đáng yêu quá, thân yêu quá, có gì như mang hương sắc đồng quê từ những câu ca dao, hát ghẹo tình tứ thuở nào cứ ngân nga mãi trong lòng ta… Gió cũng chọn áo nhưng “trêu”, phải chọn áo biếc mới thật thơ, thật đẹp. Mùa xuân là như thế, “chín” là như thế!
Từ cụ thể, từ làn nắng, từ mái nhà tranh, từ gió rồi mới nói chung: “Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang”. Câu thơ có một sự ngưng đọng, ngập ngừng xúc cảm nhẹ nhõm, bâng khuâng, vương vấn đón “bóng xuân sang”, xúc cảm ngưng tụ như nín thở đó ẩn mình vào dấu chấm giữa dòng thơ. Mạch thơ ngập ngừng như mạch xúc cảm. Bên giàn thiên lí, mùa xuân đã sang. Mùa xuân nhẹ nhõm bước… như có thể cầm được, có thể ngắm được ngay trước mắt mỗi chúng ta.
Sau dấu chấm (.), sau cái ngưng tụ và run rẩy như dây đàn căng lên trong tâm hồn thi sĩ thì mùa xuân ào tới:
“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời, Bao cô thôn nữ hát trên đồi”.
Cỏ như xanh mãi, tươi mãi trong ko gian mênh mông, rộng lớn. Hình ảnh ẩn dụ “sóng cỏ” và ba chữ “gợn tới trời” gợi tả làn cỏ xanh dập dờn trong làn gió xuân nhè nhẹ thổi. Chẳng biết ngoài kia là sóng cỏ thật , hay lòng thi sĩ cỏ xanh tươi mới gợn thành “sóng” như thế ? Mùa xuân bao giờ chẳng có màu xanh của cỏ. “Cỏ xanh như khói bến xuân tươi” (Độ đầu xuân thảo lục như yên – Nguyễn Trãi). “Cỏ non xanh tận chân trời” (Nguyễn Du)… Gam màu “xanh tươi” đầy sức sống yên bình đó trong thơ Hàn Mặc Tử cứ gợn tới trời”, trải dài mãi như ko dứt, trải mãi, ngâm vào hồn thơ. Trong sắc xuân đó, tình cảm con người cũng tới độ chín. Tiếng hát giữa mùa xuân thân quen quá, mến thương quá. Một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, dân ca, như lễ hội mùa xuân muôn thuở của cái xứ sở này được nói tới qua tiếng hát “vắt vẻo” và “thơ ngây” của những nàng xuân, của bao cô thôn nữ. Câu thơ gợi lên cái “chín” trong hồn bao cô thôn nữ qua âm thanh “vắt vẻo”, trong trẻo, tươi mát của câu hát giao duyên, của trai gái nơi đồng quê, mộc mạc nhưng tình tứ. Tâm hồn nhạy cảm, yêu cuộc sống thiết tha của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã bắt vào lời hát đó nhiều xao xuyến. Mùa xuân mới thực sự “chín” lúc có con người và có dư vang tiếng hát:
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi, Hổn hển như lời của nước mây Thầm thì với người nào ngồi dưới trúc Nghe ra ý vị và thơ ngây”.
Âm thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung, “vắt vẻo” hòa nhịp với âm trầm “hổn hển” trình bày một sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, tài tình. Tâm hồn thi sĩ đã hòa nhập hẳn vào cái toàn cầu âm thanh mùa xuân đó.
Tiếng ca như vút lên cao, như ngập ngừng, như lưu luyến giữa “lưng chừng núi”. Dư vang tiếng hát dường như giăng mắc, rung lên “vắt vẻo” gợi lên nhiều xao xuyến bâng khuâng trong lòng thi sĩ. Tiếng hát “hổn hển” được so sánh “với lời của nước mây”, lời của tự nhiên. Hai tiếng “hổn hển” như nhịp thở gấp gáp, vội vã đầy hương xuân, tình xuân, xúc cảm vừa thực vừa mơ tới lạ kì. Lời hát của các cô thôn nữ sao nhưng đáng yêu thế, như hút hồn người, như tràn trề cả ko gian, góp phần làm nên một “mùa xuân chín”. Và còn có tiếng thầm thì “thầm thì với người nào…” dưới bóng trúc, hẳn là tâm tình, là thân yêu rồi. “Vắt vẻo”, “hổn hển”, “thầm thì” là ba cung bậc của ba âm thanh mùa xuân đang chín, thấm sâu vào hồn người tới nhẹ nhõm lắng dịu, tràn đầy thương yêu. Sự phong phú về nhạc điệu và phức điệu của khúc hát đồng quê, làm say mê mọi người, để rồi cùng thi sĩ bâng khuâng cảm nhận: “Nghe ra ý vị và thơ ngây…”.
Tiếng hát mùa xuân dân dã, tình tứ và đáng yêu quá, sắc xuân, hương xuân, tình xuân “đang chín” dần trong lòng thôn nữ, bỗng ngập ngừng như có sự hẫng hụt, băn khoăn:
“Ngày mai trong đám xuân xanh đó, Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi”.
“Đám xuân xanh đó” là các cô thôn nữ đang hát, đang “thầm thì với người nào ngồi dưới trúc” kia sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ “theo chồng bỏ cuộc chơi… Tự nhiên và lòng người như quyến luyến mùa xuân dần trôi qua, tuổi xuân hồn nhiên dần trôi qua. Hàn Mặc Tử như chợt thấy buồn, thấy hẫng hụt, bâng khuâng, như mất mát đi một cái gì trong lòng lúc mùa xuân đang chín… “Xuân đang tới tức là xuân đương qua – Xuân còn non tức là xuân sẽ già” (Xuân Diệu).
Hàn Mặc Tử chính là người lữ khách đi qua mùa xuân gặp cái ý vị của mùa xuân: “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”. Một nét bút truyền thống cổ điển “xuân hướng lão” xen lẫn cái hiện đại, mới mẻ làm cho ý thơ thêm đặm đà hơn.
Gặp lúc mùa xuân chín đó nhưng thổn thức:
“Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng Chị đó năm nay còn gánh thóc Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.
Hình ảnh của kí ức hiện lên một thoáng buồn đẹp và trải rộng mênh mông xa vắng. Thi sĩ nhớ tới con người như khát khao một tình người, một tình quê. Mỗi một nổi nhớ đều rất bâng khuâng. Nhớ một công việc cụ thể: “gánh thóc” trong một ko gian cụ thể: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Chỉ có “chị đó” là người đọc ko thể biết nhưng chỉ có tác giả mới biết để nhưng “sực nhớ”, nhưng thầm hỏi. Nhưng man mác sợ “mùa xuân chín” đó sẽ trôi qua. Hình như đó là néi thơ Hàn Mặc Tử, là tâm hồn Hàn Mặc Tử khát khao giao cảm với đời nhưng luôn có một nỗi niềm lẻ loi, trống vắng, hẫng hụt như thế.
“Mùa xuân chín” là một bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong sáng, rộn rực, say mê, thơ mộng nhưng thoáng buồn nhất. Hàn Mặc Tử vơi cảm hứng tự nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm hiện lên một bức tranh xuân tươi tỉnh thơ mộng. Mùa xuân đẹp. Con người trẻ trung, hồn nhiên, xinh đẹp, đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu đồng quê, yêu làn nắng ửng, yêu mái nhà tranh, yêu giàn thiên lí, yêu tiếng hát vắt vẻo của những nàng xuân trên “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”.
“Mùa xuân chín” lúc thì dạt dào, lúc thì lắng dịu trong tâm hồn thi sĩ. Có lúc vồn vã, có lúc mênh mang, như đang lắng hồn mình vào bước đi của mùa xuân rồi bổi hổi, “sực nhớ… ” và “bâng khuâng”. Cái nhớ bâng khuâng của người lữ khách mãi mãi là tình thương yêu, nỗi khát khao giao cảm với hương sắc và khúc nhạc mùa xuân, với làng quê thân thuộc nơi miền Trung “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”…
Mẫu 3: Phân tích Mùa xuân chín
Không biết mùa xuân có tự bao giờ và thơ xuân có tự bao giờ, chỉ biết người ta sinh ra đã có mùa xuân đẹp đầy sức sống và thổi vào các hồn thơ, sống trong cuộc đời, nếu thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những câu thơ xuân thì thật buồn. Hôm qua, hôm nay và ngày mai kia lại có những vần thơ xuân cho con người, cho cuộc sống. Và hôm qua đã có Hàn Mặc Tử với “Mùa xuân chín” khi cảm xúc trong con người lữ khách đó đã đến độ tràn đầy.
Nói đến mùa xuân, có ai không hiểu đó là những phút rạo rực nhất của cuộc đời, của cuộc sống. Mùa xuân mỗi khoảnh khắc một vẻ, lúc là “mùa xuân nho nhỏ”, lúc là “mùa xuân xanh”… và đây “Mùa xuân chín” nghe vừa mới, vừa sôi nổi, vừa có một sức sống dồn nén đang thầm nảy nở giống như cái mới, cái lãng mạn và khao khát trong tâm hồn Hàn Mạc Tử.
Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi xuân, đều thấm đượm cái đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa xuân bắt đầu từ cái nắng mới lạ thường:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xuân sang”.
Đúng là nắng xuân, chẳng phải tia nắng, hạt nắng, chẳng phải giọt nắng mà là “làn nắng”. Chữ “làn” như gợi một hơi thở nhẹ nhàng, nắng như mỏng tang, mềm mại trải đều trong thơ và trong không gian. Làn nắng lại “ửng” lên trong “khói mơ tan”. Cảnh sắc nhẹ nhàng, đẹp dân dã mà huyền diệu. Sương khói quyện với nắng; cái “ửng” của nắng được tôn lên trong làn khói mơ màng đang “tan” ấy. Ngòi bút thi sĩ vẫn hướng đến một nét thơ truyền thống, cổ điển, cảnh như có hồn, như có tình chan chứa. Trân trọng đón lấy cái nắng mới tinh khiết ấy là “Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng’!. Sự hô ứng trong vần thơ tạo ra một cảm xúc ấm áp, cảnh vật cân xứng hài hòa, đầy thơ mộng. Vài nét chấm phá đơn sơ mà tinh tế gợi cảm, dung dị mà đáng yêu. Chỉ có “đôi mái nhà tranh” hiện lên trong “làn nắng ửng” nhưng vẫn gợi lên một sức sống đang lay động, dân dã bình yên rất thân thuộc với mọi người. Nắng như đang rắc lên “đôi mái nhà tranh” chút sắc xuân và hương xuân: “Sột soạt gió trêu tà áo biếc”. Cái âm thanh của gió “trêu” tà áo và cái gam màu “biếc” của, lá ây là cái tình xuân. Một chữ “trêu” đáng yêu quá, thân thương quá, có gì như mang hương sắc đồng quê từ những câu ca dao, hát ghẹo tình tứ thuở nào cứ ngân nga mãi trong lòng ta… Gió cũng chọn áo mà “trêu”, phải chọn áo biếc mới thật thơ, thật đẹp. Mùa xuân là như thế, “chín” là như thế!
Từ cụ thể, từ làn nắng, từ mái nhà tranh, từ gió rồi mới khái quát: “Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang”. Câu thơ có một sự ngưng đọng, ngập ngừng cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, vấn vương đón “bóng xuân sang”, cảm xúc ngưng tụ như nín thở ấy ẩn mình vào dấu chấm giữa dòng thơ. Mạch thơ ngập ngừng như mạch cảm xúc. Bên giàn thiên lí, mùa xuân đã sang. Mùa xuân nhẹ nhàng bước… như có thể cầm được, có thể ngắm được ngay trước mắt mỗi chúng ta.
Sau dấu chấm, sau cái ngưng tụ và run rẩy như dây đàn căng lên trong tâm hồn nhà thơ thì mùa xuân ào đến:
“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi”.
Cỏ như xanh mãi, tươi mãi trong không gian mênh mông, bao la. Hình ảnh ẩn dụ “sóng cỏ” và ba chữ “gợn tới trời” gợi tả làn cỏ xanh dập dờn trong làn gió xuân nhè nhẹ thổi. Chẳng biết ngoài kia là sóng cỏ thật, hay lòng thi sĩ cỏ xanh tươi mới gợn thành “sóng” như thế? Mùa xuân bao giờ chẳng có màu xanh của cỏ. “Cỏ xanh như khói bến xuân tươi” (Độ đầu xuân thảo lục như yên – Nguyễn Trãi). “Cỏ non xanh tận chân trời” (Nguyễn Du)… Gam màu “xanh tươi” đầy sức sống yên bình ấy trong thơ Hàn Mặc Tử cứ gợn tới trời”, trải dài mãi như không dứt, trải mãi, ngâm vào hồn thơ. Trong sắc xuân ấy, tình cảm con người cũng đến độ chín. Tiếng hát giữa mùa xuân thân quen quá, yêu thương quá. Một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, dân ca, như lễ hội mùa xuân muôn thuở của cái xứ sở này được nói đến qua tiếng hát “vắt vẻo” và “thơ ngây” của những nàng xuân, của bao cô thôn nữ. Câu thơ gợi lên cái “chín” trong hồn bao cô thôn nữ qua âm thanh “vắt vẻo”, trong trẻo, tươi mát của câu hát giao duyên, của trai gái nơi đồng quê, mộc mạc mà tình tứ. Tâm hồn nhạy cảm, yêu cuộc sống thiết tha của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã bắt vào lời hát ấy nhiều xao xuyến. Mùa xuân mới thực sự “chín” khi có con người và có dư âm tiếng hát:
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”.
Âm thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung, “vắt vẻo” hòa nhịp với âm trầm “hổn hển” thể hiện một sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, tài tình. Tâm hồn thi sĩ đã hòa nhập hẳn vào cái thế giới âm thanh mùa xuân ấy.
Tiếng ca như vút lên cao, như ngập ngừng, như lưu luyến giữa “lưng chừng núi”. Dư âm tiếng hát dường như giăng mắc, rung lên “vắt vẻo” gợi lên nhiều xao xuyến bâng khuâng trong lòng nhà thơ. Tiếng hát “hổn hển” được so sánh “với lời của nước mây”, lời của thiên nhiên. Hai tiếng “hổn hển” như nhịp thở gấp gáp, vội vàng đầy hương xuân, tình xuân, cảm xúc vừa thực vừa mơ đến lạ kì. Lời hát của các cô thôn nữ sao mà đáng yêu thế, như hút hồn người, như tràn ngập cả không gian, góp phần làm nên một “mùa xuân chín”. Và còn có tiếng thầm thì “thầm thì với ai…” dưới bóng trúc, hẳn là tâm sự, là thân thương rồi. “Vắt vẻo”, “hổn hển”, “thầm thì” là ba cung bậc của ba âm thanh mùa xuân đang chín, thấm sâu vào hồn người đến nhẹ nhàng lắng dịu, chan chứa thương yêu. Sự phong phú về giai điệu và phức điệu của khúc hát đồng quê, làm say mê mọi người, để rồi cùng nhà thơ bâng khuâng cảm nhận: “Nghe ra ý vị và thơ ngây…”.
Tiếng hát mùa xuân dân dã, tình tứ và đáng yêu quá, sắc xuân, hương xuân, tình xuân “đang chín” dần trong lòng thôn nữ, bỗng ngập ngừng như có sự hẫng hụt, băn khoăn:
“Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi”.
“Đám xuân xanh ấy” là các cô thôn nữ đang hát, đang “thầm thì với ai ngồi dưới trúc” kia sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ “theo chồng bỏ cuộc chơi… Thiên nhiên và lòng người như quyến luyến mùa xuân dần trôi qua, tuổi xuân hồn nhiên dần trôi qua. Hàn Mặc Tử như chợt thấy buồn, thấy hẫng hụt, bâng khuâng, như mất mát đi một cái gì trong lòng khi mùa xuân đang chín… “Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua – Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già” (Xuân Diệu).
Hàn Mặc Tử chính là người lữ khách đi qua mùa xuân gặp cái ý vị của mùa xuân: “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”. Một nét bút truyền thống cổ điển “xuân hướng lão” xen lẫn cái hiện đại, mới mẻ làm cho ý thơ thêm đậm đà hơn.
Gặp lúc mùa xuân chín ấy mà thổn thức:
“Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.
Hình ảnh của kí ức hiện lên một thoáng buồn đẹp và trải rộng mênh mông xa vắng. Nhà thơ nhớ đến con người như khao khát một tình người, một tình quê. Mỗi một nổi nhớ đều rất bâng khuâng. Nhớ một công việc cụ thể: “gánh thóc” trong một không gian cụ thể: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Chỉ có “chị ấy” là người đọc không thể biết mà chỉ có tác giả mới biết để mà “sực nhớ”, mà thầm hỏi. Mà man mác sợ “mùa xuân chín” ấy sẽ trôi qua. Hình như đó là néi thơ Hàn Mặc Tử, là tâm hồn Hàn Mặc Tử khao khát giao cảm với đời mà luôn có một nỗi niềm cô đơn, trống vắng, hẫng hụt như thế.
“Mùa xuân chín” là một bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong sáng, rạo rực, say mê, thơ mộng mà thoáng buồn nhất. Hàn Mặc Tử vơi cảm hứng thiên nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm hiện lên một bức tranh xuân tươi tắn thơ mộng. Mùa xuân đẹp. Con người trẻ trung, hồn nhiên, xinh đẹp, đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu đồng quê, yêu làn nắng ửng, yêu mái nhà tranh, yêu giàn thiên lí, yêu tiếng hát vắt vẻo của những nàng xuân trên “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”.
“Mùa xuân chín” lúc thì dạt dào, lúc thì lắng dịu trong tâm hồn thi sĩ. Có lúc vồn vã, có lúc mênh mang, như đang lắng hồn mình vào bước đi của mùa xuân rồi bồi hồi, “sực nhớ… ” và “bâng khuâng”. Cái nhớ bâng khuâng của người lữ khách mãi mãi là tình thương mến, nỗi khát khao giao cảm với hương sắc và khúc nhạc mùa xuân, với làng quê thân thuộc nơi miền Trung “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang…
Mẫu 4: Phân tích Mùa xuân chín
Tạo hóa đã cho chúng ta được chào đón bốn mùa của đất trời, mỗi mùa đều mang tới một cảm xúc, một vẻ đẹp riêng biệt. Mùa hạ mang vẻ đẹp rực rỡ, sôi động. Mùa thu là sự nên thơ, dịu dàng, khiến lòng người man mác buồn. Mùa đông tuy lạnh lẽo nhưng lại giúp chúng ta được quây quần gần nhau hơn bên bếp lửa ấm áp. Nhưng có lẽ mùa xuân là mùa được mong chờ nhất trong một năm tuần hoàn của thời gian vì nó mang tới sự sinh sôi, tràn ngập sức sống cho sự vật và là mùa khởi đầu cho một năm mới đến. Chính vì vậy, mùa xuân đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác bất tận cho văn chương. Trong số những tác phẩm viết về mùa xuân, thật thiếu sót lớn khi không nhắc tới bài “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử. Tác phẩm đã góp phần làm nên tên tuổi của Hàn Mặc Tử, được xếp ở phần Hương thơm trong tập “Đau thương”, được sáng tác trước năm 1937 của tác giả.
Ngay từ nhan đề, Mùa xuân chín đã mang tới cho người đọc sự tò mò về “mùa xuân” mà Hàn Mặc Tử mang tới như thế nào? Chúng ta thường thấy từ chín để miêu tả về một loại quả đang ở độ thơm ngon nhất. Mùa xuân Hàn Mặc Tử gửi gắm qua tác phẩm cũng mang theo ý nghĩa như vậy. Đây là một mùa xuân đang ở khoảng thời gian đẹp nhất và tràn ngập sức sống nhất. Vậy mùa xuân chín đẹp ra sao? Hàn Mặc Tử đã trả lời câu hỏi này qua hai khổ thơ đầu của tác phẩm:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…”
Mở đầu bài thơ, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một bức tranh mùa xuân thật thanh bình nơi làng quê. Mùa xuân tới, không còn nắng gắt của mùa hạ mà thay vào đó là những “làn nắng” nhẹ nhàng chỉ đủ để “ửng” lên. Trong làn nắng đó là những làn sương mờ ảo như khói trong một giấc mơ đang hòa tan vào nắng. Cách sử dụng từ của Hàn Mặc Tử thật độc đáo, khiến trước mắt người đọc hiện ra khung cảnh thật êm ả và thơ mộng. Cái nắng tinh khiết của độ xuân chín ấy đã chiếu lên “Đôi mái nhà tranh” quen thuộc của làng quê Việt Nam một cách rất dịu dàng, chỉ “lấm tấm vàng”. Mùa xuân đẹp nhất ấy còn thể hiện qua những cơn gió khẽ lướt “sột soạt” để trêu “tà áo biếc”.
Khi mùa xuân đến, cỏ cây đơm chồi nảy lộc, phủ khắp nơi một màu xanh biếc đã được ví như “tà áo biếc”, không chỉ vậy, tác giả đã thật khéo léo sử dụng biện pháp đảo ngữ để từ chỉ hoạt động “sột soạt” lên trên đầu câu thay vì tả gió sột soạt để nhấn mạnh hoạt động của gió. Từ “trêu” cũng thật là đáng yêu, gió đang len lỏi vào từng chút quang cảnh xanh biếc của màu xuân, như đang trêu đùa cây cỏ, khiến không khí thật sôi động, vui tươi. Rồi từ cái nhìn bao quát khung cảnh mùa xuân có nắng có gió, Hàn Mặc Tử chuyển tầm mắt đến với những sự vật chi tiết hơn, đó là “giàn thiên lý”, để rồi chợt nhận ra “bóng xuân sang”. Trong những câu thơ trên, tác giả không hề nhắc tới mùa xuân mà chỉ mượn sự vật có trong mùa xuân để tả về xuân chín. Nhưng đến câu thơ cuối của đoạn này, tác giả đã khẳng định “bóng xuân sang”, bởi vì sau khi ngắm nhìn khung cảnh xung quanh từ bao quát đến chi tiết, mùa xuân đã hiện hữu ra ngay trước mắt của tác giả, không còn là thứ vô hình nữa.
Đến đoạn thơ tiếp theo, mùa xuân chín thật sự đã tới gần với Hàn Mặc Tử và chúng ta hơn bao giờ hết với “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Câu thơ này làm gợi nhớ đến một câu thơ trong tuyệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du tả cảnh mùa xuân đó là “Cỏ non xanh tận chân trời”. Trong câu thơ của Hàn Mặc Tử cũng là hình ảnh cánh đồng cỏ xanh bất tận “tới trời”, nhưng bên cạnh đó nhà thơ đã sử dụng từ một cách tài tình với từ “Sóng cỏ”, khiến cho cánh đồng cỏ như những cơn sóng, đang dập dờn bởi làn gió xuân. Mùa xuân chín, không những được biểu hiện bởi cảnh vật mà còn thể hiện ra bởi con người. Đó là những “cô thôn nữ” đang hát trên đồi, bởi mùa xuân đến có các lễ hội mùa xuân với những bài dân ca, ca dao được cất lên, đây là một nét đẹp trong văn hóa bao đời nay của Việt Nam. Niềm vui rộn ràng chào xuân hòa cùng với hạnh phúc lứa đôi, vì ngày mai trong “đám xuân xanh” có người phải đi lấy chồng, “bỏ cuộc chơi”. Ở đây, tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ cho “đám xuân xanh” chỉ những người con gái đang ở tuổi xuân rực rỡ nhất. Vậy đấy, mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử không chỉ tô điểm cho cuộc sống đẹp hơn mà còn kết quả cho tình yêu lứa đôi.
Niềm hân hoan chào xuân chín của con người được thể hiện rõ hơn ở đoạn thơ thứ 3:
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thì với ai ngồi dưới gốc trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây.”
Những tiếng mừng xuân sang từ “trên đồi” đã bay bổng lên để rồi “vắt vẻo” ở lưng chừng núi. Tiếng ca hòa vào thiên nhiên được tác giả so sánh “Hổn hển như lời của nước mây”. Tiếng ca không còn được miêu tả chỉ bằng thính giác nữa mà Hàn Mặc Tử đã miêu tả chúng bằng cả thị giác, chúng “vắt vẻo” và “hổn hển”. Những tiếng ca đang ở nhịp cao vút đến độ phải “hổn hển” đột nhiên lại “thì thầm” với “ai”. Từ “ai” không chỉ rõ ràng một người nào, đây là nhân vật trữ tình bí ẩn trong thơ của Hàn Mặc Tử. Và những tiếng ca đó thì thầm truyền vào “ai” những ý vị và thơ ngay. Đây là những câu thơ thật lãng mạn, phù hợp với mùa xuân chín.
Cuối bài thơ, Hàn Mặc Tử đã tự mình hóa thành một vị “khách” để cảm nhận cái tình của “mùa xuân chín” rõ ràng nhất:
“Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông nắng trắng chang chang.”
Vị khách bất ngờ gặp “mùa xuân chín” mang theo cảm giác tiếc nuối, lưu luyến nhớ về mùa xuân năm nào đó nơi quê nhà “Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng”. Và trong mùa xuân chín xa xôi đó, vị khách nhớ cả người chị của mình. Không biết “chị ấy” năm nay như thế nào? có còn tiếp tục “gánh thóc không? Thực chất, ở đây Hàn Mặc Tử đã sử dụng đai từ phiếm chỉ cho từ “chị ấy”. Chị ấy có thể là chị của vị khách xa, nhưng đây cũng là những người dân lao động nơi làng quê, đang chăm chỉ lao động đầu năm cùng mùa xuân tràn nhựa sống, với ánh nắng chang chang, dọc bờ sông. Một khung cảnh thật hữu tình, báo hiệu một năm mới bội thu và mùa xuân đó càng rực rỡ hơn bởi nó nằm trong kí ức của người khách “xa quê”.
Tác phẩm “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử là một tác phẩm thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận của tác giả. Mùa xuân chín mà Hàn Mặc Tử mang tới cho người đọc là mùa xuân đang ở độ đẹp nhất với đầy đủ các sắc thái khác nhau. Lúc thì nhẹ nhàng, dịu dàng, khi thì nhiệt huyết, rực rỡ và lúc lại mang tới cảm xúc tình lặng, tiếc nuối. Qua tác phẩm, tác giả cũng đã thể hiện tình yêu quê hương, đất nước qua từng nét bút tả cảnh xuân vô cùng chân thật. Và cùng với đó là tình yêu thương và chân trọng con người, những con người Việt Nam tràn ngập sức sống và chăm chỉ lao động vì Tổ quốc, giống như “mùa xuân chín” vậy. Chính vì vậy, tác phẩm “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử vẫn nguyên vẹn những giá trị cho tới hiện nay.
Dàn ý phân tích Mùa xuân chín này sẽ giúp học sinh nắm vững cấu trúc và nội dung cơ bản của tác phẩm. Từ đó, các em có thể phát triển thành những bài phân tích hoàn chỉnh và sâu sắc hơn.