Phân tích Tây Tiến mang đến cảm nhận và hình dung rõ nét về thông điệp của tác giả. Quang Dũng đã thành công khắc họa nên người lính thời chiến vừa bất khuất, kiên cường vừa lãng mạn, lạc quan.
Dàn ý phân tích Tây Tiến
Dưới đây là dàn ý phân tích Tây Tiến chi tiết để các em tham khảo. Dàn ý được biên soạn bởi đội ngũ giáo viên giỏi, có nhiều kinh nghiệm giảng dạy văn học.
Mở bài
Giới thiệu về tác giả Quang Dũng với đôi nét về tiểu sử, phong cách nghệ thuật và các sáng tác chính. Tác giả là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ Thơ mới.
Giới thiệu khái quát về bài thơ Tây Tiến bao gồm hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung và nghệ thuật. Đây là tác phẩm tiêu biểu về đề tài chiến tranh với góc nhìn lãng mạn, trữ tình.
Thân bài
1. Giới thiệu khái quát về đoàn quân Tây Tiến
- Tây Tiến là tên gọi của trung đoàn Tây Tiến, được thành lập năm 1947
- Nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào
- Địa bàn hoạt động rộng: Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa, Sầm Nứa
- Lính Tây Tiến chủ yếu là người Hà Nội, trẻ trung, yêu nước
2. Khung cảnh thiên nhiên miền Tây và những cuộc hành quân gian khổ
Cảm xúc chủ đạo là “nhớ chơi vơi”, nỗi nhớ da diết bao trùm mênh mang. Nỗi nhớ ấy đầy ắp lên mọi cảnh vật, con người trong tác phẩm.
Cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hiện lên hoang sơ, dữ dội và hiểm trở:
- Hình ảnh thơ: sương lấp, mây, mưa, thác, cọp… gợi nên sự gian nan, vất vả
- Địa danh: Sài Khao, Mường Lát gợi sự xa xôi, cách trở
- Sử dụng từ láy giàu giá trị tượng hình: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút
- Điệp từ “dốc” gợi sự quanh co, gập ghềnh, địa hình hiểm trở
- Hình ảnh thơ độc đáo: “súng ngửi trời” vừa diễn tả độ cao vừa thể hiện nét tinh nghịch
- Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự hoang sơ, man dại
- Thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” thể hiện sự thường xuyên đối mặt hiểm nguy
Cảnh thiên nhiên miền Tây lãng mạn, bình dị:
Mang lại hương vị ngọt ngào, nồng ấm cho những người lính xa quê. Thiên nhiên vừa khắc nghiệt vừa dịu dàng, tạo nên sự đối lập thú vị.
Hình ảnh người lính: “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời” thể hiện sự mệt mỏi sau hành quân. Đây có thể là giây phút nghỉ ngơi tạm thời hoặc sự nghỉ ngơi vĩnh viễn của các anh.
3. Những kỷ niệm đẹp về tình quân dân và cảnh sông nước miền Tây
a) Cảnh đêm liên hoan văn nghệ:
- Không khí tưng bừng: “doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”
- Hình ảnh các cô gái: trang phục lộng lẫy, e thẹn qua “xiêm áo”, “nàng e ấp”
- Những người lính trẻ say mê: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
b) Cảnh sông nước miền Tây:
- Cảnh sắc thiên nhiên: “Chiều sương ấy” mờ ảo, huyền thoại
- “Hồn lau” phất phơ như có hồn, thiêng liêng
- Con người: “Dáng người trên độc mộc” mềm mại, uyển chuyển mà hiên ngang
4. Chân dung người lính Tây Tiến
Ngoại hình: “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “mắt trừng gửi mộng”. Hình ảnh chân thực thể hiện thực tế khốc liệt của chiến tranh nhưng vẫn toát lên vẻ gân guốc, độc đáo.
Tâm hồn:
- Hào hoa, lãng mạn – nét đặc trưng chàng trai Hà thành
- “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
- Ý chí kiên cường: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Sự hi sinh:
- Hình ảnh thơ: “biên cương”, “mồ viễn xứ”, “áo bào”, “về đất”
- Sử dụng từ Hán Việt, nghệ thuật nói giảm nói tránh
- Cái chết được xem nhẹ nhàng, thanh thản như sự trở về với đất mẹ
5. Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây
“Mùa xuân ấy” – thời điểm lịch sử khó khăn nhưng hào hùng. “Hồn về Sầm Nứa, chẳng về xuôi” – lời thề gắn bó máu thịt với đoàn quân và miền Tây.
6. Giá trị nội dung và nghệ thuật
- Nội dung: Hình ảnh người lính bi tráng, lãng mạn trên nền thiên nhiên vừa dữ dội vừa thơ mộng
- Nghệ thuật: Kết hợp hài hòa bút pháp lãng mạn và hiện thực
- Ngôn ngữ, hình ảnh thơ độc đáo, phong phú
- Liên hệ với “Đồng chí” (Chính Hữu), “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật)
Kết bài
Tổng kết lại nội dung và ý nghĩa của bài thơ Tây Tiến. Tác phẩm là bức tranh sống động về người lính Việt Nam anh hùng, lãng mạn.
Liên hệ cảm nhận cá nhân về giá trị tác phẩm. Khẳng định ý nghĩa giáo dục yêu nước, lòng tự hào dân tộc qua hình ảnh người lính Tây Tiến.
Mẫu 1: Phân tích bài thơ Tây Tiến
Tây Tiến được xem là một kiệt tác của Quang Dũng. Bài thơ được sáng tác vào giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Theo nhà thơ Trần Lê VănTây Tiến là một bài thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất hiện ngay trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhà thơ Trần Lê Văn, người bạn thân của Quang Dũng từng viết về hoàn cảnh sáng tác bài thơ như sau:
“Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu; ngồi ở Phù Lưu Chanh (Hà Đông) anh viết bài thơ Tây Tiến.
Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh từ Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, miền tây Thành Hoá sang tận Sầm Nưa (Lào) rồi vòng về qua miền tây Thành Hoà. Những nơi này, lúc đó, còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng rậm, có nhiều thú dữ.”
Phần đông người lính Tây Tiến là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp, có cả những chàng trai là học sinh, sinh viên (trong đó có Quang Dũng). Trong quá trình Tây Tiến, những người lính có cuộc sống sinh hoạt cực kỳ gian khổ bởi ốm đau không có thuốc, rất nhiều chiến sĩ đã tử vong vì sốt rét (nhiều hơn cả đánh trận). Tuy vậy, đời sống tinh thần của họ vẫn rất phong phú, họ lạc quan và chiến đấu dũng cảm. Những người lính trẻ vượt lên sự khắc nghiệt của điều kiện sống, sinh hoạt cũng như các cuộc chiến đẫm máu, họ vẫn yêu đời, hào hoa và thanh lịch, ở họ còn có chất lãng mạn đặc biệt.
Bài thơ Tây Tiến là tác phẩm song hành cả 2 điểm lãng mạn và tính chất bi tráng của một cuộc chiến. Ở đó có cái tôi cảm xúc của nhà thơ, có trí tưởng tượng phong phú kết hợp với khả năng cường điệu, đối lập, tô đậm sự phi thường của những người lính. Cũng từ đó, ta thấu hiểu được sự hùng vĩ, vẻ đẹp tuyệt mĩ trong thời khắc chiến tranh sinh tử. Thiên nhiên Tây Bắc cũng được nhà thơ khắc họa với nhiều góc nhìn thật đa dạng và độc đáo. Cảnh đẹp hoang sơ mà ấm áp nhưng cũng có khi lại chứa đựng bí ẩn đầy rùng rợn. Chất lãng mạn giúp nhà thơ cảm nhận được vẻ thơ mộng của núi rừng đan cài trong hình ảnh con người, những cô gái Tây Bắc. Chất lãng mạn được tác giả thể hiện với mục tiêu truyền cảm hứng cao cả, người lính sẵn sàng hi sinh vì lí tưởng chung của cộng đồng và dân tộc.
Chất bi tráng cũng được miêu tả rõ qua nhiều câu thơ. Thực tế, câu từ trong thơ không hề che giấu cái bi ấy nhưng được thể hiện để giọng điệu mà âm hưởng đậm tính hào hùng chứ không lụy. Chất lãng mạn kết hợp với bi tráng đã tạo nên vẻ đẹp riêng của bài thơ đi cùng năm tháng. Từ khi ra đời, Tây Tiến được lưu truyền rộng rãi trong quân đội. Tuy vậy, ở thời điểm đó niều người cho rằng bài thơ có phần đơn giản, tư tưởng anh hùng kiểu cũ mà trong thời gian dài, Tây Tiến ít được nhắc đến. Mãi đến thời kỳ Đổi mới, người ta nhìn lại các tác phẩm văn học trong giai đoạn trước, Tây Tiến mới được khôi phục lại vị trí và giá trị với nghệ thuật và lịch sử.
Sự liên kết chủ đạo giữa các đoạn trong bài là liên kết về mặt cảm xúc cũng như tâm trạng của nhà thơ. Toàn bài chứa đựng nỗi nhớ da diết của Quang Dũng dành cho đồng đội, nhớ về kỉ niệm của đoàn quân cùng khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ và cũng đầy thơ mộng. Trong từng câu thơ, kỉ niệm được tái hiện như sóng nước nhịp nhàng. Dưới ngòi bút của Quang Dũng, những ký ức ấy càng trở nên sống động, người đọc cũng phải nhớ lại cùng tác giả như được sống cùng nhà thơ trong giai đoạn đó.
Nỗi nhớ bao trùm lên cả không gian và thời gian, được khắc họa ngay trong những câu thơ:
Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Tình cảm của tác giả đã quá lớn, đến nỗi Quang Dũng không thể ìm nén mà phải thốt lên thành tiếng gọi thân thương “Tây Tiến ơi!”. Cảm xúc như lắng đọng cũng như bùng nổ với hai chữ “chơi vơi” được dùng để mô tả cảnh rùng núi. Bởi Quang Dũng đang hình tượng hóa nỗi nhớ để ta hình dung ra trạng thái cụ thể của nó, cũng là cách khơi nguồn cho núi cao, dốc sâu, vựng thẳm, rừng dày mà đoàn quân đã vượt qua trong quá khứ:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm.
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Chỉ bằng bốn câu thơ, tác giả đã vẽ nên bức tranh hoàn chỉnh, hoành tráng miêu tả sự hiểm trở, hoang vu và đầy nguy hiểm của núi rừng Tây Bắc – cũng chính là địa bàn hoạt động của đoàn qauan Tây Tiến. Từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” giàu sức tượng hình cũng khiến người ta nghĩ ngay đến sự trùng điệp, địa hình phức tạp của không gian nơi đây. Từ “ngửi trời” được tác giả sử dụng rất tự nhiên nhưng cũng thật táo bạo. Nghệ thuật nhân hóa được tác giả sử dụng khiến chiếc súng cũng trở nên gần gũi hơn, như một người bạn với người lính trong những tháng ngày gian khổ Câu thứ ba vừa để diễn tả cảnh núi sông trập trùng nhưng cũng là để chỉ đoạn đường hành quân của Tây tiến không hề đơn giản. Nhưng dù vậy, họ vẫn có cái nhìn tinh tế, góc quan sát, tinh thần lạc quan khi khó khăn vất vả nhưng vẫn phóng tầm mắt ra xa để nhìn những ngôi nhà nơi Pha Luông đang mưa gió mịt mờ. Sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa bốn câu thơ đã tạo nên âm hưởng đặc biệt. Nếu 3 câu đầu tác giả dùng các cụm từ rất gân guốc, để gợi lên cảm giác nguy hiểm trập trùng, câu thứ 4 lại kết thúc nhẹ nhàng, mềm mại (với toàn thanh bằng). Quy luật này dường như tương đồng với các họa sĩ sử dụng trong hội họa: giữa các gam nóng phải dùng kết hợp gam lạnh để làm dịu cả bức tranh.
Sự trùng điệp mà tác giả mô tả khiến ta nghĩ về các câu thơ trong Chinh phụ ngâm: “Hình khe thế núi gần xa, – Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”. Còn vẻ hoang vu và hiểm trở dường như đã được nhắc đến trong thơ của Lý Bạch: “Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh” (Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên).
Không dừng ở đó, nhà thơ tiếp tục khai thác sự ghê gớm của núi rừng theo nhiều chiều, không chỉ phân tích không gian, tác giả xoáy sâu vào dòng thời gian của nui rừng Tây Bắc, là nỗi khiếp sợ với con người:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Sự hoang sơ và hiểm trở đã hiện lên rõ nét qua ngòi bút của Quang Dũng với đầy đủ núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ,… Bên cạnh đó, tác giả còn liệt kê nhiều tên vùng đất nghe lạ lẫm nhưng gắn liền với chặng đường lịch sử của đoàn quân: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch. Quang Dũng sử dụng hình ảnh giàu giá trị tạo hình, kèm theo đó là vần trắc liên tiếp khiến người ta cảm nhận được sự vất vả, gian truân của người lính giai đoạn ấy.
Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:
Nhớ ôi Tây Tiến thơ lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Những câu thơ gợi lên cảm giác ấm cúng và viên mãn mà người lính trông chờ. Bởi sau bao nhiêu vất vả khi phải băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, cuối cùng họ cũng đến trạm dừng chân nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, ở đó người dân đã chuẩn bị sẵn những nồi cơm với hương thơm quanh quẩn, bốc khói thật ấm áp. Tất cả đã xua tan sự mệt mỏi trong cả ngày dài, khiến người lính tươi tỉnh hẳn lên. Đây cũng là những dòng thơ thể hiện tình cảm của người dân dành cho lính hành quân, họ yêu thương, sẵn sàng chăm lo và chuẩn bị thức ăn đầy đủ cho những người lính, ở giai đoạn ấy, việc có cơm có gạo đã không dễ dàng nhưng người dân đã chuẩn bị cơm gạo mùa, vẫn còn thơm mùi nếp cho những con người hành quân vất vả.
Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị thu hút bởi vẻ đẹp trong đêm liên hoan của người lính. Có rất nhiều chi tiết được nhà thơ miêu tả sinh động nhưng cũng như mộng như ảo:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa.
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Doanh trại sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng của ngọn lửa còn có thêm âm thanh réo rắt của tiếng khèn. Cảnh vật và con người đều như đang trong men say, ngất ngây và rạo rực. Hai chữ “kìa em” miêu tả rõ nét sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên của nhà thơ hay cũng chính là của những người lính trong đêm văn nghệ. Những cô gái núi rừng Tây Bắc đã xiêm áo rựng rễ, vừa e thẹn, vừa ngại ngùng để thể hiện điệu múa mang đậm chất dân tộc, thu hút hoàn toàn sự chú ý của các chàng trai Tây Tiến.
Cảnh đêm Tây Bắc thật đẹp và ngây ngất, nhưng cảnh sông nước được tác giả miêu tả lại cũng không ém phần độc đáo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Dòng sông như đang giăng mắc một màn sương, tất cả yên lặng và hoang dại như trở lại thời tiền sử. Trên dòng sông lại mang dáng vẻ của truyện cổ tích hoặc chỉ xuất hiện trong huyền thoại khi có cô gái ngồi thuyền độc mộc kèm đó là dòng nước hoa đong đưa.
Sự tài tình của nhà thơ nằm ở việc tác giả tả cảnh vật thiên nhiên không nhắc đến gió nhưng vẫn khiến người ta cảm nhận được sự tồn tại của nó (“có thấy hồn lau nẻo bến bờ”). Không chỉ vẽ nên bức tranh, nhà thơ còn thổi vào đó cái hồn của bức tranh ấy. Cả đoạn thơ hiến người đọc như lạc vào chốn thần thiên đẹp đẽ khiến người ta say mê và ngất ngây. Trong chất thơ có ẩn chứa cả chất nhạc nhưng lời hát của những người lính trên đường hành quân. Có lẽ cũng vì vậy, chính Xuân Diệu cũng phải thừa nhận, khi đọc thơ Tây Tiến như đang ngậm âm nhạc trong miệng.
Cái nền hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng, chèn theo đó là nét thơ mộng duyên dáng của cảnh Tây Bắc, hình ảnh người lính Tây Tiến đầy bi tráng đã xuất hiện với một nét đẹp lạ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Nhà thơ đã chọn lọc nên những hình ảnh tiêu biểu, đặc trưng cho đoàn quân để khắc họa nên chân dung của người lính và cũng vẽ lên tập thể đoàn quân, khái quát được những gương mặt chung đang trên đường ra trận. Ở đó có “đoàn binh không mọc tóc”, “dữ oai hùm”, “mắt trừng”. Cái bi và hùng được tác giả hòa quyện, nương tựa và nâng đỡ nhau để tạo nên thần thái trong câu thơ và cũng là tranh trong thơ.
Thơ ca trong kháng chiến thường nhắc đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Trong bài thơ Đồng chí, Chính Hữu từng nhắc:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Trong thơ của Tố Hữu cũng từng nhắc đến ở bài Cá nước: “Giọt giọt mồ hôi rơi, – Trên má anh vàng nghệ” đây chính là những dòng thơ khắc họa lại căn bệnh quái ác ấy. Tất nhiên, Quang Dũng cũng không che đậy những gian khổ và bệnh hiểm nghèo thời đi lính, cách mô tả còn khiến người đọc cảm nhận về sự hi sinh của những chàng trai trẻ. Tuy vậy, qua ngòi bút của ông, tất cả đã phủ thêm một lớp lãng mạn thay vì khắc họa trần trụi khiến người ta dễ dàng cảm nhận. Những cái đầu trọc không phải hình ảnh giật gân mà những người lính thực sự đã phải cạo đầu để thuận tiện khi đánh giáp lá cà, cũng không ít người bị sốt rét mà rụng tóc đến trọc đầu. Cái vẻ xanh xao, yếu ớt vì đói và bệnh tật, dưới góc nhìn của Quang Dũng lại thật hào hùng, oai phong như những con hổ của rừng thiêng. Sự oai phong lẫm liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ. Nhưng người lính, người chiến sĩ cũng không phải không có trái tim, Quang Dũng đã nhìn thấu vẻ ngoài của họ đến nội tâm rạo rực, nhớ về tình cảm của quá khứ với “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Không chỉ khắc họa nên dáng vẻ bên ngoài, nhà thơ đã cảm nhận được thế giới tâm hồn đầy mơ mộng của những người lính. Dù khó khăn, gian khổ, họ vẫn là những con người bằng xương bằng thịt, vẫn có nhung nhớ quê nhà và khát khao trở lại với thời bình.
Nếu quan sát lại những khổ thơ trước, ta nhận ra Quang Dũng luôn có sự cân bằng cảm xúc. Không quá bi, lụy, tác giả luôn có sự nâng đỡ trong thơ của mình để người đọc cảm nhận được đời lính vẫn có những thú vui, vẫn có được khoảnh khắc ấm áp. Người lính có dáng vẻ tàn tạ nhưng được soi sáng bởi ý chí, quyết tâm về tổ quốc. Và trong chiến tranh, sự hi sinh là điều không thể tránh khỏi. Cái chết được Quang Dũng sử dụng biện pháp nói tránh, lấn át đi sự buồn thương sâu thẳm trong tâm hồn mỗi người còn sống:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Giọng thơ đã thể hiện rõ ràng sự trang trọng, tình cảm đau thương vô hạn, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội. Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ tô đậm thêm không khí chung của Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, buồn, nhưng linh hồn vẫn toát lên vẻ hào hùng:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Cái tinh thần “một đi không trở lại” (nhất khứ bất phục hoàn) thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả đoàn quân. Những người lính gắn bó máu thịt với từng ngày hành quân, những cứ điểm mà họ đi qua và có thể đi không trở lại.
Mẫu 2: Phân tích bài thơ Tây Tiến
Tây Tiến là một trong những dấu son sáng ngời của nền văn học nghệ thuật Việt Nam. Không thực tế như Bài thơ về tiểu đội xe không kính, không đượm tình rõ nét như Đồng chí mà lại rất lãng mạn, tươi trẻ nhưng không kém phần bi tráng.
Mở đầu bài thơ, tác giả cho thấy rõ nét nỗi nhớ khắc khoải của mình với hình ảnh cụ thể là Sông Mã. Tiếp theo đó là những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua và đều có chút chậm rãi nào đó để tận hưởng vẻ đẹp thiên nhiên. Dù rằng chặng đường có khúc khuỷu, dốc thăm thẳm nhưng vẫn không làm vơi đi tinh thần thưởng thức của tác giả. Ông tái hiện tròn nét hình ảnh người lính ngạo nghễ với súng ngửi trời, nghênh ngang giữa núi sông. Bởi vì lên đường vì lý tưởng, vì tổ quốc nên các chàng trai không hề mang theo cảm giác buồn bã hay gò bó.
Không có sự logic, không mang sự tuần tự rõ ràng, kí ức trôi đến đâu tác giả viết đến đấy. Ông như quặn thắt với những anh bạn dãi dầu, gục lên súng mũ mà không thể trở về. Thế nhưng sự hi sinh này lại vô cùng ý nghĩa bởi nhờ đó mà xa xa mới là những ngôi nhà bình yên. Sự yên ả ấy được đổi lại bằng những ngày hành quân không mỏi qua thác oai linh gầm thét, cọp trêu người. Trong quá trình di chuyển ấy, vẫn sẽ có những nỗi nhớ len lỏi về cơm lên khói, thơm nếp xôi Mai Châu.
Chìm vào cảm giác hoài niệm, tác giả thả trôi mình về ngày mà doanh trại bừng lên hội đuốc hoa. Những cô gái Tây Bắc xinh đẹp điệu đà xiêm áo, e ấp bên tiếng khèn man điệu đặc trưng. Có thể ngoài kia bão đạn vẫn dữ dội nhưng không gian nơi này như đứng yên, núi rừng bao trùm để quân dân cùng nhau đùa vui những giây phút thảnh thơi hiếm hoi. Thế rồi sau khi trải qua, sự thật là ùa về, là chuyến đi Viên Chăn, Châu Mộc đầy khó khăn và xa vời.
Sự gian khổ của hành trình này dường như không có giới hạn, bởi con người còn phải đối mặt với bệnh tật. Đoàn binh không mọc tóc vì sốt rét vẫn bước, vẫn có người ngã xuống nhưng người còn lại vẫn giữ quân xanh màu lá, dữ oai hùm. Vẫn là những chiến sĩ gan trường mắt trừng gửi mộng giữ gìn biên giới, trải qua thời tiết khắc nghiệt. Vậy mà đến khi có thời gian nghỉ ngơi họ vẫn mang theo tâm hồn hào hoa, lãng mạn, nhớ về dáng kiều nơi Hà Nội xa xôi.
Đã chấp nhận bước chân vào hành trình này nghĩa là không mơ đến ngày trở về, đi không hẹn ước. Thậm chí cái chết còn đến bất ngờ, rải rác mồ viễn xứ và áo bào thay chiếu chứ không được trang trọng như nghi thức bình thường. Tiếng kèn trống được thay bằng tiếng Sông Mã gầm vang, dữ dội mà bi tráng biết bao. Những người lính mùa xuân ấy ra đi ở lại mãi với lý tưởng của mình, hồn về Sầm Nứa để ngắm nhìn non sông. Thế nhưng ta lại chẳng thể nào cảm nhận được sự buồn bã, trách móc mà vẫn là sự tự hào, lạc quan vì sự nghiệp Tổ quốc.
Nhà thơ Quang Dũng thể hiện rất rõ phong cách của mình trong tác phẩm Tây Tiến, không dị biệt nhưng không trùng lặp. Ông thực sự đã mang tới cho đời một góc nhìn khác về hành trình của người lính thời kháng chiến chống Pháp nói riêng và lịch sử hào hùng nói chung. Để rồi mãi đến sau này, Tây Tiến vẫn sẽ là dấu ấn sáng chói cho sự nghiệp sáng tác của ông và được người đời đón đọc, nghiền ngẫm.
Mẫu 3: Phân tích bài thơ Tây Tiến
Tây Tiến được đánh giá là bài thơ xuất sắc nhất về bộ đội trong giai đoạn năm 1945 – 2000. Đọc bài thơ, ta cứ ngỡ đang đọc một bài thơ cổ của Lý Bạch – Thương tiến tửu. Lối tráng sĩ hề một đi không trở lại được thể hiện theo cách ngang tàng nhưng cũng hào hoa về các chàng trai Hà Nội đi lính thời đó. Với thủ pháp nghệ thuật độc đáo, tác giả đã mang đến một bài thơ hay với nhiều cung bậc cảm xúc.
Các câu thơ được tác giả chia thành 2 vế âm dương trên dưới đối nhau để cảm nhận được sự nguy hiểm của đoạn đường hành quân. Chẳng hạn:
Dốc lên khúc khuỷu/dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây/súng ngửi trời…
Cách kết hợp này đã tạo nên sự cân bằng và dễ ghi nhớ cho người đọc. Với câu thơ “Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm” thật đặc biệt, lãng mạn dù ở hoàn cảnh khó khăn giữa nơi rừng hoang, núi thẳm, những người chiến sĩ vẫn nhớ về quê hương, nhớ về người con gái mình yêu để nỗ lực tìm ngày trở về.
Cái hay của nhà thơ là cái hay trong cách dùng chữ. Để chỉ phái nữ, trong bài thơ dùng 3 chữ “hoa” với ngụ ý ẩn dụ ám chỉ về con gái. Câu “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” cũng là cảm nhận của nhà thơ về vẻ đẹp của những cô gái ở bản làng. Chính trong bài thơ Gửi Tuyên Quang của Nguyễn Khôi cũng có cái cảm nhận có vẻ đồng điệu:
Đêm Hà Nội đã nhạt mùi hoa sữa
Tưởng tóc ai phảng phất hương rừng…
Nhà thơ Quang Dũng đã góp phần đưa thơ Việt Nam đương đại lên đỉnh cao lãng mạn cách mạng. Trong thơ, tả cảm nhận được không chỉ có những phút giây gian khổ, người lính vẫn có chất thi sĩ trong tâm hồn để vượt qua chặng đường khó khăn.
Mẫu 4: Phân tích bài thơ Tây Tiến
Tây Tiến là một trong những bài thơ hay, xuất sắc vừa có chất bi tráng, vừa lãng mạn trong giai đoạn 1945. Không chỉ vậy, bài thơ còn thể hiện nỗi nhớ của tác giả Quang Dũng với những ngày tháng hành quân cùng quân đoàn Tây Tiến. Cũng chính khoảng thời gian đó, ông được ghé thăm nhiều địa điểm gắn liền với văn hóa Tây Bắc với cảnh đẹp hùng vĩ nhưng cũng rợn người.
Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã cất lên nỗi nhớ và gọi tên “Tây Tiến ơi” một cách tha thiết nhất. Dù không còn ở lại với những ngày tháng ấy nhưng nhà thơ vẫn đang chất chứa nhiều kỉ niệm về những ngày tháng ấy. Đó cũng là minh chứng rõ ràng cho sự trân trọng của tác giả với năm tháng hào hùng:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Sông Mã gắn liền với những kỉ niệm của binh đoàn Tây Tiến, đến giờ, Sông Mã cũng đã xa, nhà thơ cũng không còn trong đoàn quân ngày nào mà chỉ còn mình mình với nỗi nhớ về quá khứ và đồng đội. Hình ảnh con sông Mã gắn liền với những kỉ niệm của đoàn binh Tây Tiến. Tiếng “ơi” kết hợp với từ láy “chơi vơi” vừa tạo âm vang như khi cất tiếng gọi tha thiết ở vùng núi cao bị vọng lại. Cạnh đó, cách dùng từ này cũng làm cho kỉ niệm như được đánh thức, ở đó có cả niềm vui, nỗi buồn, có cả sự khổ cực của những năm tháng hành quân. Từ chơi vơi cũng tạo cho ta cảm giác chông chênh, không cân bằng, tả rõ sự khó khăn gian truân của chặng đường mà đoàn quân đã trải qua. Nhớ về những ngày tháng hành quân, Quang Dũng cũng nhớ về các địa điểm đã từng đi qua như Sài Khao, Mường Lát. Đây là 2 địa danh gắn liền với cuộc hành quân mà đoàn binh Tây Tiến đã đi qua. Hai từ “sương lấp” và “đêm hơi” cũng giúp ta hiểu về thời gian hành quân trong ngày dài như thế nào, khi họ phải bắt đầu chặng đường từ sáng sớm ở Sài Khao và đến đêm mới được nghỉ ngơi ở Mường Lát. Tiếng “hơi” kia để chỉ sương buông xuống trong màn đêm, tràn cả cánh rừng. Hình ảnh “hoa về” ngụ chỉ ngọn đuốc của các chiến sĩ trong đêm sáng rực như những đóa hoa đêm trong rừng.
Quang Dũng lại nghĩ đến sự trắc trở, khó khăn của địa hình trong chặng đường hành quân của mình. Cũng chính tài năng tài tình của tác giả đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên đẹp mà sống động:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Bức tranh có lên, có xuống, có sự đối lập giữa trên và dưới lại thể hiện được vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Đồng thời, chính những câu thơ này cho ta hiểu sự khó khăn của chặng đường đoàn quân đã trải qua, ý chí kiên cường bất khuất của từng chiến sĩ khi không lùi bước mà đã nỗ lực để vượt qua được cả chặng đường ấy. Ba câu đầu tác giả dùng vần trắc liên tiếp cũng khiến người đọc cảm thấy được trúc trắc khi phát thành tiếng, cách dùng thơ này cũng ngụ ý đường đi gian lao, khó nhọc và hiểm trở. Từ láy “khúc khuỷu” cũng đã lột tả được độ cao, độ sâu của cảnh rừng Tây Bắc, thế nhưng những chiến sĩ Tây Tiến vẫn kiên cường vượt qua để súng được “ngửi trời”. Hình ảnh nhân hóa được tác giả sử dụng khiến ngọn súng cũng trở nên mạnh mẽ hơn hết. Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống vừa là cách tả cảnh, vừa được nhà thơ dùng để chỉ chặng đường mà các chiến sĩ đã phải lên xuống trên chặng đường hành quân của mình. Để rồi sau đó, nhà thơ kết thúc khổ bằng một câu văn với toàn vần bằng êm ả, thể hiện dù khó khăn bao nhiêu, các chiến sĩ vẫn có chất lãng mạn, quan tâm đến nhân dân. Ở trên đỉnh nói, họ phóng tầm mắt đi xa, quan sát được khu vực Pha Luông đang có mưa, những trận mưa như làm cho tâm hồn con người trở nên thanh bình hơn.
Sự hi sinh của người lính Tây Tiến cũng được tác giả kể lại nhưng theo cách nói giảm nói tránh. Để người đọc hiểu được nỗi khó khăn của chiến sĩ nhưng vẫn hiểu rằng toàn bài là nỗi nhớ thương không phải đau buồn, bi lụy về những ngày đã qua:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Không dùng từ chết, không dùng đến từ hi sinh nhưng người đọc đều hiểu rằng đồng đội của Quang Dũng đã không còn nữa. Chính cách nói ấy cũng giúp ta thấu hiểu với người lính Tây Tiến, cái chết và sự hi sinh nhẹ tựa lông hồng. Họ sẵn sàng đánh đổi mạng sống để có được hòa bình, có được đất nước như hôm nay, đuổi sạch không bóng quân thù.
Quang Dũng lại tiếp tục khắc họa nên cảnh thiên nhiên Tây Bắc theo góc nhìn khác. Sự hiểm nguy của núi rừng không chỉ đến từ địa hình, mà còn là thú dữ chốn rừng thiêng. Cách dùng từ hóm hỉnh của nhà thơ lại khiến người ta giảm nhẹ cảm giác căng thẳng nhưng vẫn thấu hiểu được nỗi khó khăn của chặng đường ấy:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Để rồi sau bao vất vả người lính Tây Tiến lại về với Mai Châu thơm nếp xôi. Hình ảnh tình quân dân ấm áp đã thể hiện rõ nét qua câu thơ này. Khi người lính được đón tiếp nồng hậu sau chặng đường hành quân vất vả bởi gạo mùa vẫn còn thơm mùi, bằng nếp bằng xôi. Không chỉ vậy, những ngày tháng ấy còn có hung cảnh cùng nhau liên hoan văn nghệ với những người con gái nơi bản làng Viên Chăn đầy e ấp:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Doanh trại bừng lên đuốc hoa, ánh sáng của những ngọn lửa. Từ “kìa” được tác giả sử dụng thể hiện rõ sự ngạc nhiên của những người chiến sĩ trước vẻ đẹp của các cô gái trong bộ trang phục truyền thống. Điệu múa “e ấp” cũng khiến các chiến sĩ Hà Nội phải “động lòng” . Tiếng khèn cùng điệu múa ấy mang chất nhạc vào hồn thơ, các chiến sĩ cũng có cơ hội thả hồn vào khoảnh khắc vui vẻ của đêm hội. Thế nhưng, cuộc vui nào cũng đến lúc tàn, người chiến sĩ Tây Tiến lại lên đường làm nhiệm vụ:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Đoàn quân Tây Tiến ra đi từ Châu Mộc trong buổi “chiều sương” không gian chiều phảng phất cảm giác buồn và tiếc nuối của kẻ đi người ở, thời tiết mờ sương cũng như báo hiệu cho quãng đường gian nan mà các anh sắp phải đối mặt. Người đi đến thiên nhiên cũng phảng phất nỗi buồn, lau như có hồn mà rủ bên bến bờ để vẫy chào người chiến sĩ. Người ở lại chèo trên độc mộc, trôi theo dòng nước với hoa đong đưa. Bức tranh đẹp, có sinh khí và sức sống nhưng cũng đượm buồn khi tiễn đưa đoàn quân Tây Tiến trên chặng đường và hành trình của mình.
Khổ thơ tiếp theo, Quang Dũng mô tả lại hình ảnh những người đồng đội của mình trong đoàn quân:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Chỉ vài câu đơn giản đã giúp ta hình dung nên sự khó khăn, vất vả và hi sinh của những người chiến sĩ. “Không mọc tóc” có thể do các chiến sĩ phải cạo đầu để đánh sáp lá cà, cũng có thể do bệnh sốt rét, hoặc chốn rừng thiêng không thuận tiện vệ sinh nên tóc rụng hết. Dù là lý do gì, cũng khiến người ta hiểu được ngoại hình của họ như vậy là có nguyên nhân. Màu xanh của quần áo (cũng có thể là da mặt của các chiến sĩ xanh xao vì thiếu thốn) đi kèm với vẻ mặt của các chiến sĩ khiến hình ảnh này thật hùng tráng. Dù hiểu theo cách nào, Quang Dũng cũng muốn người đọc thấy được đoàn quân tuy ốm nhưng vẫn oai phong như chúa tể muôn loài. Hình ảnh mặt trừng là thái độ căm giận của người lính với kẻ thù, mong muốn gột sạch quân thù ra khỏi biên giới nước ta. Câu thơ ấy được coi là như mộng rớt buồn rơi, vì thế mà có thời Tây Tiến bị cấm do nhiều người cho rằng đây là hình ảnh anh hùng kiểu cũ. Tuy vậy, chính những câu thơ đặc tả ấy đã làm nên sức sống, giá trị riêng của tác phẩm và lưu truyền cho đến tận hôm nay.
Trong những trận đấu ác liệt ấy, không biết bao nhiêu người lính Tây Tiến đã hi sinh. Nhưng hình ảnh ấy cũng mang vẻ đẹp lịch sử, là bức tượng đài bất hủ:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Chiến tranh đã khiến dù hi sinh họ cũng không được chôn cất đàng hoàng. Đó là lý do rải rác nơi biên cương là những nấm mồ không tên, tuềnh toàng và sơ sài. Dù vậy, khi đã quyết chí lên đường, không ai đắn đo chuyện sống chết. Những người lính ra đi với lý tưởng vững chắc, không tiếc nuối cho thời trai trẻ huy hoàng, chính những khoảnh khắc ấy đã làm nên vẻ đẹp huy hoàng tuổi trẻ, bất kể có thể họ phải trở về với cát bụi mà gia đình cũng không thể tìm được xác. Sông Mã cũng phải gầm lên khóc thương cho những con người ấy. Cách sử dụng từ của Quang Dũng đã khiến cái chết của người chiến sĩ nhẹ nhàng hơn nhưng cũng trang trọng hơn. Để giờ đây, khi lên Tây Bắc, người ta sẽ nhớ về những con người đã hy sinh, để “hồn về Sâm Nứa” nhưng cũng chẳng về xuôi, chẳng về được mảnh đất Hà Nội nơi họ đã “ra đi không hẹn ước” với người thân, với bạn bè hay với “dáng kiều” của họ.
Qua lời thơ, Quang Dũng đã bày tỏ lòng thương nhớ vô bờ đến đơn vị cũ của mình. Những cái tên trong đoàn quân Tây Tiến sẽ chẳng bao giờ lu mờ dù thời gian trôi. Sự hi sinh của những chiến sĩ Tây Tiến ngày ấy cũng được ghi nhớ và là bức tường thành bất hủ trong lòng mỗi người dân Việt Nam.
Dàn ý phân tích Tây Tiến này giúp học sinh nắm vững cấu trúc bài và phát triển ý tưởng riêng. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho việc học tập môn Văn.