Phân tích Thu hứng

Phân tích Thu hứng là một chủ đề quan trọng trong chương trình văn học phổ thông. Bài thơ “Thu hứng” của Đỗ Phủ thể hiện tâm trạng buồn bã, cô đơn của nhà thơ qua khung cảnh mùa thu ảm đạm.

Dàn ý phân tích Thu hứng

Dưới đây là dàn ý chi tiết để phân tích bài thơ “Thu hứng” của Đỗ Phủ, được biên soạn bởi đội ngũ giáo viên giỏi có nhiều kinh nghiệm giảng dạy văn học.

Mở bài

Giới thiệu tác giả Đỗ Phủ – đại thi hào thời Đường, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác. Giới thiệu tác phẩm “Thu hứng” – bài thơ thể hiện cảm xúc mùa thu của nhà thơ.

Nêu vấn đề chính sẽ được tập trung phân tích: mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình và những phương tiện nghệ thuật độc đáo.

Thân bài

a. Phân tích mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình:

Nhan đề bài thơ “Thu hứng” gợi ra cho người đọc những suy nghĩ về tâm trạng của nhà thơ trong mùa thu. Mạch cảm xúc đi từ cảm xúc trước bức tranh thiên nhiên mùa thu đến cảm xúc trước khung cảnh sinh hoạt của con người.

b. Cảm xúc của nhà thơ trước bức tranh thiên nhiên mùa thu:

Khung cảnh mùa thu ở trên cao:

  • “Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm”: diễn tả làn sương dày tạo thành màu trắng xóa làm tiêu điều cả rừng phong
  • “Vu Sơn, Vu giáp khí tiêu sâm”: hai địa danh thuộc tỉnh Tứ Xuyên với vách núi dựng đứng, hiểm trờ

Khung cảnh mùa thu ở dưới thấp:

  • “Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng”: động từ mạnh “tung vọt”, “trùm” diễn tả chuyển động dữ dội của dòng sông
  • “Tái thượng phong vân tiếp địa âm”: hình ảnh gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u

Các phương tiện nghệ thuật:

  • Phép đối: “Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng”/”Tái thượng phung vân tiếp địa âm”
  • Tính từ miêu tả: “trắng xóa”, “hiu hắt”, “âm u” tạo bức tranh thiên nhiên hiu hắt
  • Gieo vần: “lâm” – “sâm”, “âm” tạo không gian rộng, tiêu điều, u ám

c. Tâm trạng trước cảnh vật và sinh hoạt con người:

Hình ảnh “khóm cúc nở hoa” và “con thuyền lẻ loi” gợi cảm giác trôi nổi, vô định. Điều này diễn tả cảm giác nhớ thương quê nhà của tác giả.

Phép đối: “Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ/ Cô chu nhất hệ cố viên tâm.” Hoạt động con người: “Hàn y xứ xứ thôi đao xích,/ Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.”

d. So sánh với các tác phẩm cùng đề tài:

So sánh với bài thơ “Thu hứng” bài 2 của Đỗ Phủ để làm rõ nét độc đáo, hấp dẫn riêng. Cảm xúc mùa thu được thể hiện qua góc nhìn và phong cách nghệ thuật khác biệt.

Kết bài

Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mỹ của bài thơ “Thu hứng”. Bài thơ thể hiện tài năng nghệ thuật của Đỗ Phủ trong việc khắc họa tâm trạng con người.

Ý nghĩa của bài thơ đối với văn học Trung Quốc và ảnh hưởng đến thơ ca Việt Nam.

Mẫu 1: Phân tích Thu hứng

Đỗ Phủ là nhà thơ tiêu biểu của nền Thi Đường Trung hoa và được người đời sau tôn vinh làm Thi thánh (Thánh thơ). Cuộc đời Đỗ Phủ sống trong thời kì loạn An – Sử với những biến cố dữ dội của thời đại. Ông phải chịu cảnh li tán, ốm đau, bệnh tật và khốn khó tại Quỳ Châu.

Trong những tháng ngày phiêu bạt nơi đất khách quê người, ông đã sáng tác bài thơ “Thu hứng” (bài 1) nằm trong chùm tám bài thơ cùng nhan đề. Tác phẩm khắc họa bức tranh thiên nhiên, con người trong mùa thu từ đó bày tỏ nỗi nhớ quê hương của tác giả Đỗ Phủ.

Ngay từ nhan đề đã gợi cho người đọc tâm trạng của thi nhân trước cảnh mùa thu. Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình vận động từ cảm xúc trước bức tranh thiên nhiên mùa thu đến cảm xúc trước cảnh vật và khung cảnh sinh hoạt của con người.

Trong bốn câu thơ đầu, nhà thơ đã miêu tả bức tranh thiên nhiên mùa thu hiu hắt, tiêu điều. Khung cảnh mùa thu ở trên cao được khắc họa qua hai câu thơ: “Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,/ Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

Từ “trắng xóa” đã diễn tả được độ dày của màn sương, gợi cho ta cảm giác sương dày đặc, giăng kín lối khiến cho rừng phong trở nên tiêu điều, xác xơ, hoang vắng. Nhà thơ nhắc đến hai địa danh là núi Vu và kẽm Vu thuộc tỉnh Tứ Xuyên Trung Quốc. Đây là nơi có địa hình hiểm trở với những vách núi dựng đứng. Về mùa thu, nơi đây mù mịt u ám lại kết hợp với cụm từ “hơi thu hiu hắt” càng nhấn mạnh không khí lạnh lẽo đang bao trùm khắp không gian.

Ở hai câu tiếp theo, tầm mắt của nhà thơ đã hạ xuống thấp với hình ảnh “sóng tung vọt trùm bầu trời” và “gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u”. Động từ “tung vọt”, “trùm” đều là những động từ mạnh diễn tả chuyển động nhanh, dữ dội của con sóng giữa lòng sông.

Đồng thời, hình ảnh “gió mây sà xuống” khiến mặt đất âm u càng làm cho không gian trở nên tối tăm, lạnh lẽo, vô tình tạo cho người đọc những hình dung về địa thế hiểm trở của những cách núi khiến ánh mặt trời khó lọt được xuống tới lòng sông.

Sự kết hợp giữa cảnh tiêu điều, u ám của rừng phong với vẻ hùng vĩ của núi rừng hiểm trở đã tạo nên bức tranh thiên nhiên mùa thu hiu hắt, rợn ngợp. Bên cạnh việc miêu tả sự vật, hiện tượng thông qua ngôn từ, nhà văn đặc biệt chú ý đến cách gieo vần.

Bốn câu thơ nhưng có đến tận ba câu gieo chủ yếu vần bằng tạo nên cảm giác mênh mang trong tâm trạng của nhân vật trữ tình khiến âm điệu thơ có phần bi thương. Nhà thơ đã thể hiện nỗi buồn mênh mang của mình trước bức tranh thiên nhiên mùa thu.

Đến bốn câu cuối trong bài thơ, ta nhận thấy nhân vật trữ tình có sự vận động, biến chuyển cảm xúc trước cảnh vật và khung cảnh sinh hoạt của con người. Nỗi lòng của chủ thể trữ tình được bộc lộ thông qua những hình ảnh: “khóm cúc nở hoa hai lần”, “con thuyền lẻ loi”, “rộn ràng dao thước may áo rét”, “tiếng chày nện vải càng dồn dập”.

Hình ảnh “khóm cúc nở hoa hai lần” dùng để chỉ thời gian tương ứng với hai năm xa nhà của tác giả. Nhà thơ không giấu nổi nỗi xúc động mà tuôn rơi nước mắt khi nhìn về khóm cúc. Danh từ “con thuyền” gợi ra sự trôi nổi, vô định kết hợp với từ láy “lẻ loi” càng làm tăng thêm nỗi cô đơn, không bến đỗ trong tâm tưởng của chủ thể trữ tình.

Hình ảnh con thuyền không chỉ giới hạn ở nghĩa tả thực mà nó còn mang ý nghĩa biểu tượng dùng để chỉ thân phận lênh đênh của con người. Hai câu thơ: “Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,/ Cô chu nhất hệ cố viên tâm” đã diễn tả nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết của nhân vật trữ tình trước khung cảnh thiên nhiên mùa thu.

Đến hai câu cuối, bài thơ bắt đầu xuất hiện âm thanh náo nhiệt “rộn ràng dao thước” và “tiếng chày nện vải” của con người. Tuy nhiên, những từ láy “rộn ràng”, “dồn dập” không khiến cho bài thơ trở nên tươi vui hay làm cho tâm trạng nhân vật trữ tình tốt hơn. Đứng trước khung cảnh sinh hoạt của con người, nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả càng trở nên mãnh liệt hơn.

Như vậy, bốn câu thơ cuối của bài thơ đã diễn tả tâm trạng đau buồn, nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương sâu sắc từ đó bày tỏ tình yêu quê hương của thi nhân. Bài thơ không chỉ là tâm trạng của riêng Đỗ Phủ mà nó còn đại diện cho biết bao người sống trong thời đại với nhiều biến cố.

Cũng nằm trong chùm tám bài thơ cùng nhan đề, “Thu hứng” (bài 2) miêu tả khung cảnh Phủ Quỳ, từ đó thể hiện niềm yêu nước một cách thầm kín. Mặc dù cùng viết về cảm xúc của con người trong thu nhưng điều khiến cho “Cảm xúc mùa thu” (bài 1) trở nên độc đáo và khác biệt so với bài 2 nằm ở hình ảnh thơ giàu sức gợi, chan chứa một nỗi u hoài, trầm lắng của nhà thơ khi phải rời xa quê hương, lưu lạc nơi đất khách quê người.

Bài thơ được triển khai với tứ thơ theo các mối quan hệ tương đồng, tả ít gợi nhiều. Ngôn từ cô đọng, hàm súc. Tác giả tuân thủ chặt chẽ về niêm, luật, cách gieo vần. Nhan đề, nội dung cảm xúc và hình ảnh nghệ thuật đều góp phần bộc lộ chủ đề của tác phẩm: thể hiện nỗi nhớ, tình yêu quê hương của tác giả trước bức tranh thiên nhiên và khung cảnh sinh hoạt của con người trong mùa thu.

“Cảm xúc mùa thu” bài 1 mang dấu ấn của một hồn thơ tinh tế. Nỗi u hoài, thương nhớ quê hương của tác giả khi ông sống trong cảnh khốn khó, bệnh tật tại Quỳ Châu đã để lại nhiều xúc cảm, suy tư với người đọc. Tài năng và nhân cách cao đẹp của Đỗ Phủ đã giúp ông trở thành Thi Thánh trong lòng hậu thế.

Mẫu 2: Phân tích Thu hứng

Đỗ phủ sinh ra và lớn lên trong tình cảnh đất nước Trung Quốc triền miên trong cảnh loạn li mặc dù ông giữ một chức quan nhưng cũng chỉ trong một thời gian ngắn ông đã rơi vào tình cảnh phiêu bạt. Đỗ Phủ là nhà thơ lớn nhất không chỉ của thơ Đường mà là trong cả lịch sử Trung Quốc.

Ông để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ và có tầm ảnh hưởng lớn . Trong số đó cá bài thơ “Thu Hứng” là bức tranh mùa thu hiu hắt và đó cũng chính là tâm trạng của nhà thơ đồng thời bìa thơ cũng là một tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật thơ Đường thời bấy giờ.

Bốn câu thơ đầu là cảnh được bao quát trong tầm mắt rộng và xa:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)

Bốn câu thơ dầu tả cảnh thu đầy màu sắc và âm thanh vừa có chất vừa có họa. Ta có cảm nhận được ông đang đứng ở vị trí tương đối cao để có thể ngắm nhùn toàn cảnh vật ví thế khả năng quan sát của ông cũng khá cao và rất là rộng nên ông đứng ở đó có thể nhìn được toàn cảnh bức tranh thiên nhiên mùa thu.

Cảnh rừng phong được nhà thơ nhắc đến trong những câu thơ đầu tiên. Mùa thu thì gắn với những cánh rừng phong đang vào mùa rụng lá, cảnh rừng phong đã chuyển sang màu đỏ tượng trưng cho màu sắc của sự li biệt của sự cách xa. “móc sa”ở đây chính là những giọt sương trắng tượng trưng cho mùa thu cho sự lạnh lẽo.

Sườn móc xa làm xơ xác cả một rừng phong đang vào mùa thu buồn, những giọt sương làm cho cánh rừng đã nhuốm màu buồn nay lại được tô điểm thêm khiến cho cảnh vật thêm nét tiêu điều ảm đạm . Cảnh vật buồn được hiện lên rất rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ.

Hình ảnh rừng phong gợi lên một vẻ thu, một sắc thu tiêu điều, buồn bã. Rừng phong là một biểu tượng của mùa thu phương Bắc, là một thi liệu được nói đến nhiều trong thơ cổ, tuy mang tính ước lệ, nhưng rất gợi cảm thi vị. Hai câu đầu, hình ảnh ẩn dụ và nhân hóa với 2 cặp từ gợi tả (điêu thương, tiêu sâm).

Đỗ Phủ đã làm hiện lên một không gian núi rừng mang một màu sắc buồn thương tàn tạ, hiu hắt. Hai câu thơ tiếp theo tả cảnh thực đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu như hai câu thơ đầu tiên là tả cảnh trên cao thì hai câu thơ tiếp theo thì tả cảnh dưới thấp được cảm nhận qua đôi mắt tinh sảo của thi nhân nhưng chứa đựng rất nhiều tâm sự.

Trước cảnh vật bao la kì vĩ trước cảnh đất trời nổi sóng dường như con người bé lại và thật nhỏ nhoi thật nhỏ bé biết chừng nào trước thiên nhiên rộng lớn ấy. Các từ “sóng rợn” “mây đùn”đã diễn tả cảnh trời đất rộng lớn bao la hùng vĩ trước con người nhỏ bé.

Hai câu thơ đầu tả cảnh sắc buồn tẻ của thiên nhiên thì hai câu thơ sau lại tả cảnh dữ dội hùng vĩ của thiên nhiên như hô ứng đối lập nhau khiến cho bài thơ thêm phần mới lạ và có đôi chút bí hiểm thu hút người đọc.

Bốn câu thơ đầu bài thơ, cảnh thu từ rừng phong đến Vu Sơn, Vu Giáp, từ dòng sông sóng vỗ, đến cửa ải mây đùn – tất cả đã gợi lên nỗi niềm, bao cảm xúc đối với kẻ tha hương. Ở bốn câu thơ đầu tả cảnh thu, hai câu đề đặc tả cảnh sắc mùa thu đẫm uất bi thương, tàn tạ (điêu thương, tiêu sâm), hai câu thực đặc tả cảnh thu hoành tráng dữ dội (ba lãng, phong vân, tiếp địa âm). Cảnh sắc mùa thu mang dấu ấn của địa phương Quỳ Châu vừa âm u, vừa hùng vĩ, cảnh sắc ấy mang phong cách thơ của Đỗ Phủ vừa trầm uất, vừa bi tráng.

Bốn câu thơ sau tác gải phát triển cảm xúc của mình nỗi lòng tác giả được thể hiện trực tiếp hơn cụ thể hơn:

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà. )

Hoa cúc cũng giống như rừng phong đều là những như gợi nhớ mọi người đến mùa thu. Nhắc đến mùa thu tác giả nói đến hoa cúc là một điều bình thường nhưng cái lạ ở đây chính là khi nhắc đến loài hoa lại xuất hiện dòng lệ rơi .

Chữ “lệ” trong câu thơ này khiến cho người đọc khó nhận biết được đây là lệ của hoa hay chính là lệ của nhà thơ của tác giả. Nhưng có lẽ ta nên hiểu theo ý mỗi khi nhìn hoa của nở nhà thơ lại chạnh lòng nhớ đến quê hương.

Những giọt nước mắt đó cũng cứ như thế mà tuôn rơi không thể nào chặn lại được. Hình ảnh hoa cúc tuôn thêm dòng lệ cũ thể hiện nỗi nhớ quê hương trở đi rồi trở lại cứ thấp thỏm trong tâm trạng của nhà thơ đồng thời cũng gợi về dòng lệ chứa chan tình của nhà thơ.

Đây là hình ảnh thơ vừa có ý nghĩa tả thực, vừa là một biểu tượng nghệ thuật. Khi chạy loạn, cả gia đình Đỗ Phủ đã phải sống trên một con thuyền thả trôi trên sông Trường Giang. Loạn lạc nên họ không thể trở về quê hương được.

Tấm lòng thương nhớ quê nhà đành buộc chặt nơi con thuyền nhỏ ấy. Hình ảnh con thuyền còn mang một ý nghĩa khái quát, nó đã trở thành một biểu tượng nghệ thuật của văn học, dùng để chỉ thân phận lênh đênh của con người.

Ở hai câu thơ cuối bổng nổi lên một tiếng chày giặt vải trên dòng sông. Am thanh ấy khiến ta dường như có thể quên được đi cái nỗi nhớ quê hương đang chen lấn đang trôi dậy trong lòng nhà thơ.

Nhưng đối với tác giả thì âm thanh ấy lại không đủ để xua tan những áng mây buồn trong lòng người thi sĩ. Khí thu lạnh lẽo như nhắc nhở con người về việc may áo để chuẩn bị cho cái rét cái lạnh.

Âm thanh mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ vừa mở ra một nỗi nhớ mênh mang sâu thẳm trong lòng nhà thơ miên man không dứt. Qua tâm trạng của nhân vật trữ tình, bài thơ đã tố cáo mạnh mẽ những cuộc chiến tranh phi nghĩa, nguyên nhân cơ bản đẩy con người đến những cảnh ngộ thương tâm.

Bài thơ vừa là nỗi u sầu của người nhớ quê, vừa là niềm khao khát một cuộc sống yên bình của mỗi người dân. Ai đã từng sống trong chiến tranh, từng chịu cảnh loạn li ắt hẳn sẽ có sự đồng cảm sâu sắc với tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ này.

Phần lớn thơ của Đỗ Phủ là thơ luật. Thu hứng cũng nằm trong số đó. Về cấu tứ và hình ảnh quả thực không có gì quá xa lạ. Đó đều là những thi liệu vẫn được các nhà thơ đời Đường ưa thích sử dụng.

Nhưng với tài năng tinh luyện ngôn ngữ, sử dụng thanh bằng, trắc và tấm lòng tha thiết với quê hương đất nước, nhà thơ đã sáng tạo nên một thi phẩm giàu xúc cảm, vừa gợi cảm vừa giàu giá trị nhân văn. Bài thơ là một bức tranh tâm cảnh được bắt đầu từ cảnh để biểu lộ tình. Nó mang vẻ đẹp cổ điển về ngôn ngữ thi liệu, cấu tứ và nồng nàn hơi thở thời đại.

Bài thơ không chỉ là tâm trạng của một Đỗ Phủ trong cảnh ngộ cụ thể. Bài thơ là tâm trạng của nhiều người, của nhiều thời đại khi họ phải sống trong cảnh biệt li, nhất là biệt li trong loạn lạc. Cảnh và tình đã có sự kết hợp rất chặt chẽ tạo nên vẻ đẹp nghệ thuật và chiều sâu tư tưởng của bài thơ.

Qua tâm trạng của nhân vật trữ tình, bài thơ đã tố cáo mạnh mẽ những cuộc chiến tranh phi nghĩa, nguyên nhân cơ bản đẩy con người đến những cảnh ngộ thương tâm. “Thu hứng” vừa là nỗi u sầu của người nhớ quê, vừa là niềm khao khát một cuộc sống yên bình của mỗi người dân. Ai đã từng sống trong chiến tranh, từng chịu cảnh loạn li ắt hẳn sẽ có sự đồng cảm sâu sắc với tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ này.

Bài thơ mang đậm cảm xúc của Đỗ Phủ cảm xúc ấy được thể hiện trong từng câu từng chữ của bào thơ. Bên cạnh đó bài thơ cũng cho chúng ta thấy được cái hay của thơ thất ngôn bát cú mỗi câu thơ đều mang cái thần thái cái cảm xúc của nhà thơ được gửi trọn vào tác phẩm.

Mẫu 3: Phân tích Thu hứng

Đỗ Phủ được coi là một trong những nhà thơ  vĩ đại nhất Trung Quốc. Tham vọng lớn nhất của ông là có được một chức quan để giúp đất nước, nhưng ông đã không thể thực hiện được điều này.

Cuộc đời ông, giống như cả đất nước, bị điêu đứng  năm 755, và 15 năm cuối đời ông là khoảng thời gian hầu như không ngừng biến động. Nhưng sự nghiệp sáng tác của ông thì vô cùng phong phú, nổi bật lên đó là bài thơ Thu Hứng.

Đỗ Phủ  sáng tác rất  nhiều bài thơ trữ tình thể hiện tình cảm  của mình trước thiên nhiên, con người và cuộc đời. Trong những bài thơ đó nổi bật và  đặc sắc  nhất có bài Thu hứng (Cảm xúc mùa thu).

Đây là bài thơ được Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi đang sống phiêu bạt ở Quý Châu..  Vùng đất Tứ Xuyên  có  núi non hùng vĩ, hiểm trở, cách xa quê hương nhà thơ mấy ngàn dặm. Sau mười một năm kể từ khi bùng nổ loạn An Lộc Sơn, tuy loạn đã dẹp xong nhưng đất nước kiệt quệ vì chiến tranh và nhà thơ vẫn phải lưu lạc ở quê người.

Hoàn cảnh ấy đã khơi gợi cảm xúc trong lòng Đỗ Phủ để có cảm xúc chủ đạo viết lên bài Thu hứng là một bức tranh mùa thu cô đơn tẻ nhật ảm đạm, đây cũng  là bức tranh  để tác giả thể hiện tâm trạng trĩu nặng u sầu của mình trong cảnh  đất nước đang loạn li, tác giả lo cho  đất nước đang lâm vào  tình cảnh rối ren, loạn lạc;  lỗi nhớ  quê hương và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách. Hai câu thơ đầu đã thể hiện những hiu hút hiu quạnh của mùa thu:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

Lác đác rừng phong hạt móc sa, Ngàn non hiu hắt, khí thu hòa. Cảnh tượng vào mùa thu thật khiến cho tâm hồn con người xao xuyến mông lung có cái cảm giác trống trải trong tâm hồn con người, và những cảnh vật thiên nhiên xao sát khiến cho tâm hồn còn người sầu lại càng sầu hơn, Toàn cảnh bao trùm trong hơi thu hiu hắt.

Vách núi dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt được xuống tới lòng sông. Vào mùa thu, khung cảnh nơi đây vốn ảm đạm, lạnh lẽo, qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng li sầu của Đỗ Phủ lại càng thêm tối tăm, ảm đạm, trĩu nặng một nỗi buồn thương.

Cảnh mùa thu những chiếc lá bay bay sào sạt trên rừng phong rộng mênh mang khiến cho con người có cảm giác trống trải. Hai câu thơ tiếp theo đó là ảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi),  cảnh thu dưới thấp.

Sông ở thượng nguồn thường hợp, nhiều ghềnh thác, nước chảy rất xiết. Vì thế nên mới có cảnh giữa lòng sông, sóng dữ dội vọt lên đến tận lưng trời. Trong câu thơ dịch : Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, các tính từ rợn, thẳm đặc tả sự hùng vĩ hiếm có của vùng sông nước nơi đây và thể hiện cảm giác choáng ngợp của con người nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ. Hình ảnh mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa:

Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

Quan sát thiên nhiên với tâm trạng buồn cô đơn vì vậy  Đỗ Phủ đã viết nên những câu thơ tả thực. cảnh sắc nhuốm màu bi thương và cũng có những nét bi tráng . Hai cặp câu như bổ sung cho nhau lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ. Bốn câu thơ tiếp theo là cảm xúc của tác giả khi ở nơi đất khách quê người :

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.

Cảnh vật thật buồn hiu quạnh khi lệ cứ tràn rơi trên nhưng tròm hoa cúc, hoa cúc là nhân tố  gợi  ra những nỗi nhớ, hình ảnh con thuyền cũng  làm cho nỗi nhớ nhà, nhớ quê trào dâng trong lòng tác giả: “Cô chu nhất hệ cố viên tâm’’. (Con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ thương nơi vườn cũ).

Chiếc thuyền lẻ loi  là một ẩn dụ đầy ý nghĩa không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất để chở ước vọng của nhà thơ về với quê hương trong tâm tưởng.  Hai câu thơ  cuối  nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong bóng hoàng hôn.

Âm thanh  đem đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui nhưng thoáng vui ấy không đủ để xua đi những áng mây buồn đang vây phủ trong tâm hồn thi sĩ.

Khí thu lạnh lẽo khiến lòng người khô quạnh. hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu ”, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng Chày đập vải). Tác giả thâu tóm cả thần thái của mùa thu trong bài thờ.

Đó là một chiều thu cụ thể ở vùng đất Quý Châu trong giai đoạn suy vong của triều đình phong kiến đương thời. Chiến tranh xảy ra liên miên đã đầy Đỗ Phủ phiêu bạt về tận góc trời xa thẳm. Ngày đêm, ông chi còn ôm ấp một hi vọng mong manh là được trở về quê cũ.

Ước mơ của Đỗ Phủ cũng là ước mơ của bao người dân nghèo khổ lưu vong. Bởi vậy, bài thơ tuy không miêu tả trực tiếp tình hình xã hội nhưng vẫn có ý nghĩa hiện thực sâu sắc và chan chứa tình đời.

Nỗi lo âu cho đất nước, nỗi buồn nhớ quê hương và nỗi ngậm ngùi, xót xa cho thân phận mình được Đỗ Phủ thể hiện đậm nét qua bài Thu Hứng và để lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc.

Dàn ý và các bài phân tích mẫu này giúp học sinh nắm vững phương pháp phân tích Thu hứng một cách có hệ thống. Từ đó, các em có thể áp dụng để viết bài luận văn học đạt điểm cao.

Để lại một bình luận